Tuesday, October 17, 2023

Trị gia cách ngôn của Chu Tử

 

Mới đây, các chuyên gia đồ cổ ở Vinh vừa sưu tầm được chiếc đĩa cổ. Chiếc đĩa đẹp và trang trọng. Vẻ đẹp của nó không chỉ ở hình thức, kiểu dáng, độ trơn bóng mà còn ở màu men, chất sứ. Vẻ trang trọng không chỉ vì hai chữ “Ngoạn ngọc” (chơi ngọc) ở phía đáy đĩa, mà còn bởi những hàng chữ Nho, nét chân phương sắc sảo, được viết kín lòng đĩa. Đoạn văn như sau:

Phiên âm: “Lê minh tức khởi, sái tảo đình trừ, yếu nội ngoại chỉnh khiết; ký hôn tiện tức, quan toản môn hộ, tất tu thân tự kiểm điểm. Nhất chúc nhất phạn, đương tư lai xứ bất dị: bán ti bán lũ, hằng niệm vật lực duy nan...”

Dịch nghĩa: Sáng sớm tỉnh dậy, quét dọn sân xướng, cốt sao trong ngoài sạch sẽ gọn gàng; xẩm tối đi nghỉ, đóng cửa khóa cổng, cần phải đích thân xem xét kiểm tra. Ăn mỗi bát cơm bát cháo phải hiểu có được chẳng phải dễ dàng; mặc tấm áo mảnh chăn luôn nhớ công sức làm ra thật khó.

Đây là 2 câu mở đầu bài Trị gia cách ngôn của Chu Tử (1130-1200), một nhân vật tiêu biểu của Lý học đời Tống.

Trị gia cách ngôn gồm 31 câu nói được đúc kết từ kinh nghiệm cổ nhân, bao gồm những bài học về nết ăn nết ở trong sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia đình, những lời răn dạy con người về đạo đức của Nho gia.

Việc ghi lại những câu cách ngôn vào lòng chiếc đĩa không chỉ là một cách nhắc nhở về sinh hoạt hàng ngày, mà mỗi khi dùng đến, trông vào, lại một lần thức tỉnh việc tu thân tề gia. Sau đây chúng tôi xin công bố 29 câu còn lại trong Trị gia cách ngôn để bạn đọc cùng tham khảo.

1. Nghi vị vũ nhi trù mậu, vô lâm khát nhi quật tỉnh

(Nên thu xếp gọn khi chưa mưa; chớ để khát mới đào giếng)

Ý như ta thường nói: chớ để nước đến chân mới nhảy.

2. Tự phụng tất tu kiệm ước; yến khách thiết vật lưu liên.

(Việc dâng biếu nên tiết kiệm; chớ mở tiệc đón khách liên miên).

3. Khí cụ chất nhi khiết, ngõa phữu năng kim ngọc; ẩm thực ước nhi tinh, viên sơ dũ trân cao.

(Đồ dùng bền mà sạch, sành gốm hơn vàng bạc; ăn uống nhẹ mà tinh, rau vườn hơn bánh quý).

4. Vật doanh hoa ốc, vật mưu lương điền.

(Chớ ham xây lầu đẹp, chớ mưu ruộng tốt).

5. Tam cô, lục bà thực dâm đạo chi môi

(Ba cô, sáu bà, kỳ thực là môi trường dẫn đến trộm cắp, dâm dật).

6. Thuyền mỹ vong kiều, phi khuê phòng chi phúc. Đồng bộc vật dụng tuấn mỹ, thê thiếp vật kỵ diễm trang.

(Nàng hầu đẹp không phải là phúc ở chốn khuê phòng. Kẻ ăn người ở không nên dùng người trẻ đẹp, vợ con kỵ dùng đồ trang sức đẹp).

7. Tổ tông tuy viễn, tế tự bất khả bất thành; Tử tôn tuy ngu, kinh thư bất khả bất độc.

(Tổ tông tuy xa, việc tế tự không thể không thành tâm; con cháu tuy kém thông minh kinh sách không thể không đọc được).

8. Cư thân vụ kỳ kiệm phác; giáo tử yếu hữu nghĩa phương.

(Đối với bản thân phải tiết kiệm, thật thà; dạy con phải đúng phép).

9. Mạc tham ý ngoại chi tài; mạc ẩm quá lượng chi tửu.

(Chớ tham của ngoài ý lực của mình: chớ uống rượu quá liều lượng).

10. Dữ kiên khiêu mậu dịch, vô chiếm tiện nghi.

(Cùng gánh vác công việc, chớ dành phần tiện lợi hơn).

11. Kiến cùng khổ thân lân, tu gia ôn tuất. Khắc bạc thành gia, lý vô cửu hưởng.

(Thấy thân thích xóm giềng cùng khổ, phải thương xót giúp đỡ. Cay nghiệt làm giàu, không hưởng được lâu).

12. Luân thường quai suyễn, lập kiến tiêu vong. Huynh đệ thúc điệt, phân đa nhuận quả. Trưởng ấu nội ngoại, nghi pháp túc từ nghiêm.

(Luân thường đảo ngược sẽ thấy tiêu vong ngay. Anh, em, chú, cháu, nên thương kẻ cô đơn. Già trẻ, nội ngoại nên phép chỉnh, lời nghiêm).

13. Thính phụ ngôn quai cốt nhục. Khởi thị trượng phu trọng hóa tài.

(Nghe lời vợ lìa tình cốt nhục - anh em. Trọng tiền của há phải trượng phu).

14. Bạc phụ mẫu bất thành nhân tử.

(Ăn ở bạc với cha mẹ, không thành người con).

15. Giá nữ trạch giai tế, vô sách trọng sính. Thú tức cầu thục nữ, vật kế hậu liêm.

(Gả con chọn rể tốt, chớ thách cưới nặng. Hỏi dâu tìm gái ngoan, chớ tính của hồi môn).

16. Kiến phú quí nhi sinh siểm dung giả, tối khả sỉ. Ngộ bần cùng nhi tác kiêu thái giả, tiện mạc thậm.

(Thấy giàu sang mà ra dáng siểm nịnh, rất đáng sỉ nhục. Gặp cùng khổ mà làm bộ kiêu ngạo, rất đáng khinh bỉ).

17. Cư gia giới tranh tụng, tụng tắc chung hung. Xử thế giới đa ngôn, ngôn đa tất thất.

(Việc cư xử trong nhà không nên tranh kiện, kiện tụng rốt cuộc là xấu. Đối xử với đời không nên lắm lời, lắm lời là hỏng việc).

18. Vật thị thế lực nhi lăng bức cô quả. Vô tham khẩu phúc nhi tư sát sinh cầm.

(Chớ cậy thế lực mà chèn ép kẻ cô quả. Không tham ăn uống mà giết hại sinh cầm).

19. Quái tích tự thị, hối ngộ tất đa. Đồi trụy tự cam, gia đạo nan thành.

(Xa lánh tự thị, phải luôn hối ngộ. Tự cam chịu sự đồi trụy, gia đạo khó thành).

20. Hiệp nặc ác thiểu, cửu tất thụ hữu lụy. Khuất chí lão thành, cấp tắc khả tương y.

(Quan nhờn tật xấu, dù nhỏ, lâu dần sẽ bị lụy. Chí khí kiên nghị, gặp việc khẩn dễ vượt qua).

21. Khinh thích phát ngôn, an tri phi nhân chi trấm tố. Đương nhẫn nại tam tư, nhân sự tương tranh, yên tri phi ngã chi bất túc.

(Phát ngôn bừa bãi, dễ gây vu vạ. Gặp sự tương tranh, phải nhẫn nại, suy nghĩ chín chắn mới biết được thiếu sót của mình).

22. Tu bình tâm ảm tưởng, thi huệ vô niệm, thụ ân mạc vong.

(Nên bình tâm suy nghĩ: làm ơn chớ nhắc, chịu ơn chớ quên).

23. Phàm sự đương dư địa, đắc ý, bất nghi tái vãng.

(Gặp nơi dễ đạt ý muốn, không nên thấy thế lui tới mãi).

24. Nhân hữu hỷ khánh, bất khả sinh đố tật tâm. Nhân hữu họa hoạn, bất khả sinh hỷ hạnh tâm.

(Người có việc vui mừng, không thể sinh lòng ghen ghét. Người có hoạn nạn, không thể mừng thầm).

25. Thiện dục nhân kiến, bất thị chân thiện. Ác khủng nhân tri, tiện thị đại ác.

(Làm việc thiện muốn để cho người biết, chưa phải chân thiện; làm điều ác sợ người biết, thực là đại ác).

26. Kiến sắc nhi khởi dâm tâm, báo tại thê nữ. Nặc oán nhi dụng ám tiễn, họa diên tử tôn.

(Thấy sắc dấy lòng dâm, sẽ báo tại vợ con. Oán giận mà lén bắn trộm, họa mãi theo con cháu).

27. Gia môn hòa thuận, tuy ung xan bất kế, diệc hữu dư hoan;

Quốc khóa tảo hoàn, tức nang thác vô dư, tự đắc chí lạc.

(Cửa nhà hòa thuận, tuy bữa ăn không đủ, vẫn có niềm vui;

Học hành thi cử sớm đạt, dẫu của không dư dật, vẫn sướng).

28. Độc thư chí tại thánh hiền; vi quan tâm tồn quân quốc.

(Đọc sách phải tìm hiểu chí của thánh hiền; làm việc công phải để tâm vào đất nước).

29. Thủ phận an mệnh, thuận thời thính thiên. Vi nhân nhược thử, cơ hồ cận yên.

(Thủ phận an mệnh, vâng theo lệnh trời. Làm người thế đó, gần thôi, gần thôi).


No comments:

Post a Comment

Tam tài giả, Thiên Địa Nhân

 https://www.dkn.tv/van-hoa/tam-tu-kinh-chon-loc-bai-7-tam-tai-la-thien-dia-nhan.html (1) Vợ Hứa Doãn được xếp thứ tư trong bốn người phụ nữ...