Sunday, April 27, 2025

Tôn Thúc Ngao

 https://www.facebook.com/huynhchuonghung/posts/pfbid022fshKRAny3cuqM7ryNmyHTkDj4zupjvuWM1cQeuHLYT4q2mzQaTjL6PCViUoq654l?__cft__[0]=AZVT66ee3m8c_NLKa_d4mfM6NW0Qg8ke-6UJv9AIsxIWwDprNEQyAwrzRSr4JQIm15HiNx5a1X_ZCCBrl0wgeCDlGm-xBwZwncycnPRUO4DzINBxBihffThEgFAvfS_3KYEPTLoVu3T0d6WgZGr58OgPit9DOf_z59oTuT6ZgGroHQ&__tn__=%2CO%2CP-R

Tôn Thúc Ngao lúc còn nhỏ đi ra ngoài chơi, gặp rắn hai đầu, liền giết rồi đem chôn. Lúc về nhà khóc. Bà mẹ hỏi duyên do, Thúc Ngao đáp rằng:

- Con nghe nói, người nào gặp rắn hai đầu sẽ chết. Vừa lúc nãy con gặp, sợ phải chết xa mẹ.
Bà mẹ hỏi:
- Vậy rắn giờ ở đâu?
Thúc Ngao đáp:
- Con sợ người khác lại gặp, nên con đã giết và chôn nó rồi.
Bà mẹ nói rằng:
- Mẹ nghe nói, người nào ngầm làm việc tốt có âm đức thì trời sẽ ban phúc cho, con không chết đâu.
Khi Thúc Ngao lớn lên, làm Lệnh doãn nước Sở, chưa bắt đầu trị quốc mà người trong nước đã tin ông là người nhân nghĩa.

Tôn Thúc Ngao vi anh nhi thời, xuất du, kiến lưỡng đầu xà, sát nhi mai chi. Quy nhi khấp. Kì mẫu vấn kì cố, Thúc Ngao đối viết: “Ngô văn kiến lưỡng đầu chi xà giả tử, hướng giả ngô kiến chi, khủng khứ mẫu nhi tử dã.” Kì mẫu viết: “Xà kim an tại?” Viết: “Khủng tha nhân hựu kiến, sát nhi mai chi hĩ.” Kì mẫu viết: “Ngô văn hữu âm đức giả thiên báo dĩ phúc, nhữ bất tử dã.” Cập trưởng, vi Sở Lệnh doãn, vị trị nhi quốc nhân tín kì nhân dã.

Saturday, April 26, 2025

Tu hành có "Tam Kiến"

 Thấy Trời đất

Thấy Chúng sinh

Thấy Bản thân


Trời Đất là cái gì?

Trới đất là quy luật

Âm dương tròn khuyết, Sinh lão bệnh tử

Nhìn thấy Trời đất, Nhận thức được sự vĩ đại và nhỏ bé

Cho nên khiêm nhường


Chúng sinh là cái gì?

Chúng sinh là nhân tính

Yêu ma quỷ quái, Danh lợi quyền tình

Nhìn thấy chúng sinh, Hiểu rõ bản chất của mọi sinh vật

Cho nên khoan dung


Bản thân là gì?

Bản thân là một tập thể dục vọng

Thất tình lục dục, Tham sân si niệm

Nhìn thấy bản thân, Cảm nhận được cái bản ngã và chân ngã

Cho nên rộng lượng


Nhìn thấy trời đất dễ dàng

Nhìn thấy chúng sinh cũng không khó

Duy nhất nhìn thấy bản thân cần trả qua 9x9 81 kiếp nạn



Wednesday, April 16, 2025

Thánh hi thiên, hiền hi thánh, sĩ hi hiền

 https://www.facebook.com/huynhchuonghung/posts/pfbid02wwKApdYuhbCimFswi75uWWW8kSFyJxSWcjMTRY7hrVyaDxJxhX2i16wu5515TJfml?__cft__[0]=AZUPoAyJpzQTyn_OIFSWjVSc03B-4L_nYs2BUjkxT3Sal6by48Ar5IV8F0PQhZccSfTs_GGZzxRkWgW5oUNp4BjiPHWRUyosvO85PPaSZHTEt3b7gh8UWrGsrZbtPF76SpOFcUpsmyARrsxwjXVIBSb_BVa3QHfHx8ZgoBFmlWm4QA&__tn__=%2CO%2CP-R

TƯƠNG KIẾN HOAN
Thi thư thập tải song biên. Tứ chi tiên. Hương đảng cương thường hiếu nghị. Học hi hiền.
Tân khổ lí. Tồn tráng chí. Kiến xuân thiên. Diệu tổ quang tông hỉ sự. Báo xuân huyên.
Tạm dịch
Mười năm đèn sách bên song,
Kẻ sĩ được xếp đầu trong bốn hạng.
Nơi xóm làng giữ cương thường hiếu nghị,
Cố gắng học theo người hiền.
Trong gian khó,
Giữ chí lớn,
Sẽ thấy mùa xuân
Được niềm vui làm rỡ ràng dòng họ,
Báo đáp công ơn cha mẹ.
(HCH - 15/4/2025)
Tứ chi tiên 四之先: mượn từ bài “Kẻ sĩ” của Nguyễn Công Trứ.
Tước hữu ngũ, sĩ cư kì liệt
Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên.
爵有五士居其列
民有四士爲之先
(Tước có năm bậc, sĩ được tính vào trong đó,
Dân có bốn hạng, sĩ được xếp đầu)
Tước có năm bậc: Thượng đại phu, Hạ đại phu, Thượng sĩ, Trung sĩ, Hạ sĩ. Sĩ ở đây là tên chức quan.
Dân có bốn hạng: sĩ, nông, công, thương. Sĩ ở đây là học trò.
(Theo Đàm Xuân Thiều – Trần trọng San: “Việt văn độc bản” lớp Đệ nhị. 1965)
Hương đảng cương thường hiếu nghị 鄉黨綱常孝誼: cũng mượn từ bài “Kẻ sĩ”:
Miền hương đảng, đã khen rằng hiếu nghị
Đạo lập thân, phải giữ lấy cương thường.
Hương đảng 鄉黨: làng xóm.
Cương thường 綱常: tức “tam cương ngũ thường”.
Tam cương 三綱: chỉ 3 mối quan hệ chính: quân thần, phụ tử, phu thê.
Ngũ thường 五常: chỉ 5 đạo lí phải có: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Hiếu nghị 孝誼: tức hiếu nghĩa. Chữ 誼 (nghị) thông với chữ 義 (nghĩa).
Hi hiền 希賢: “Hi” 希 là mong đạt đến, mượn ý từ câu trong "Thông thư – Chí học" 通書 - 志學 của Chu Đôn Di 周敦頤đời Tống:
Thánh hi thiên, hiền hi thánh, sĩ hi hiền.
聖希天, 賢希聖, 士希賢
(Thánh nhân mong đạt đến cảnh giới tri thiên; người hiền mong đạt đến cảnh giới của thánh nhân; kẻ sĩ mong đạt đến cảnh giới của người hiền.)
Diệu tổ quang tông 耀祖光宗: làm vẻ vang tổ tông dòng họ
Xuân huyên: chỉ cha mẹ.
Xuân 椿: tức cây đại xuân, theo truyền thuyết cổ đại là cây sống rất lâu. Trong "Trang tử - Tiêu dao du" 庄子 - 逍遥游 có câu:
Thượng cổ hữu đại xuân giả, dĩ bát thiên tuế vi xuân, bát thiên tuế vi thu, thử đại niên dã.
上古有大椿者, 以八千岁为春, 八千岁为秋, 此大年也.
(Thời thượng cổ có cây đại xuân, lấy 8000 năm làm một mùa xuân, 8000 năm làm một mùa thu, ấy là trường thọ)
Người xưa bèn lấy cây Đại xuân để ví cho cha, mong cha sống lâu như thế. Về sau, khi chúc thọ người nam, đều tôn xưng họ là “xuân thọ” 椿寿. Trong Luận ngữ 论语 có nói, con của Khổng Tử 孔子 là Khổng Lí 孔鲤 vì sợ làm phiền cha đang suy nghĩ vấn đề, nên đã “xu đình nhi quá” 趋庭而过 (rảo bước qua trong sân). Nhân đó người xưa bèn đem chữ “xuân” 椿 hợp lại với chữ “đình” 庭 thành “xuân đình” 椿庭, để gọi cha.
Huyên 諼, 谖, 萱: tên một loại cỏ. Biệt danh của cỏ huyên rất nhiều, như: kim châm金针, vong ưu thảo 忘忧草, nghi nam thảo 宜男草, liệu sầu 疗愁, tử huyên 紫萱 , lộc tiễn 鹿箭, hoàng hoa thái 黄花菜 .... Ta gọi loại hoa này là “hoa hiên”. Theo truyền thuyết cỏ huyên là loại cỏ khiến người ta có thể quên đi lo âu phiền muộn. Trong Hán văn, 萱草 cũng được viết là 谖草, 谖 (huyên) có nghĩa là “quên”. Ghi chép sớm nhất về cỏ huyên được thấy ở bài thơBá hề 伯兮phần Vệ phong 卫风 trong Kinh thi. Bối 背có nghĩa là bắc đường 北堂tức nhà phía bắc. Bắc đường đại biểu cho mẹ. Do vì cỏ huyên là loại cỏ có thể làm cho người ta quên đi ưu sầu, nên thời cổ, khi người con chuẩn bị đi xa, thường trồng cỏ huyên ở nhà phía bắc, hi vọng mẹ sẽ giảm bớt nỗi nhớ thương, quên đi ưu sầu.
Trong "Thi kinh – Vệ phong – Bá hề" 詩經 - 衛風 - 伯兮có câu:
Yên đắc huyên thảo
Ngôn thụ chi bối.
焉得諼草
言樹之背
(Làm sao có được cây cỏ huyên
Trồng nó ở nhà phía bắc)
P/s: Tranh của HCH

Saturday, April 5, 2025

KIM THÁNH THÁN

 https://www.facebook.com/huynhchuonghung/posts/pfbid05TGzPGoGpRumLcJy3Z5mCefUgjLeBhAtUJvbSaqnBjFta42UXeNmC6CLBrxQrDSvl?__cft__[0]=AZWhR-8x5adKy6oSatvThujKkTUlVyhi5kwyOLEiU4slmQpto_2mHDMex5wHgInx0Jdr42FU7I_rUO08FEAV2dard6gJ3MUytTdDFDnIfOrL2-Pwb20v5yH3XB1PNyNsd1IDMbEzIisXyCr42S151XhlavfMifjpwkWJ-84gAVJ7kQ&__tn__=%2CO%2CP-R

KIM THÁNH THÁN
Kim Thánh Thán 金圣叹 là nhà phê bình văn học nổi tiếng cuối đời Minh đầu đời Thanh, từng gọi Li tao 离骚, Trang tử 庄子, Sử kí(史记, Đỗ thi 杜诗, Thuỷ hử 水浒, Tây sương kí 西厢记 là “Lục tài tử thư”. Ông còn tiến hành sửa qua Thuỷ hử, Tây sương kí. Kim Thánh Thán vốn họ Trương 张 tên Tống 宋, tự Nhược Tống 若宋, người huyện Ngô 吴 tỉnh Giang Tô 江苏. Sau khi triều Minh bị diệt vong, ông đổi sang họ Kim 金 lấy tên là Nhân Thuỵ 人瑞, tự Thánh Thán 圣叹. “Nhân Thuỵ” có nghĩa là điềm tốt lành chốn nhân gian, điển này xuất phát từ Tứ tử giảng đức luận 四子讲德论:
Kim hải nội lạc nghiệp, triều đình thục thanh, thiên phủ kí chương, nhân thuỵ hựu minh.
今海内乐业, 朝廷淑清, 天府既章, 人瑞又明.
(Nay trong nước yên vui, triều đình thịnh trị, phủ trời đã đẹp, điềm lành chốn nhân gian lại sáng)
Ông đổi tên “Nhân Thuỵ” một là lấy ý điềm tốt lành chốn nhân gian, hai là lấy ý “hựu minh” biểu thị lòng nhớ đến triều Minh.
Về lai lịch của tên tự “Thánh Thán” có thuyết cho rằng:
Có một lần, ông cùng một đám tú tài, giám sinh đến Văn miếu tế Khổng Tử. Lễ tế vừa kết thúc, đám thư sinh thường ngày nho nhã đột nhiên xông lên trước án, giành lấy bánh và thịt, chọn miếng ngon vất miếng dở, lấy cái lớn bỏ cái nhỏ, hành vi vô cùng xấu xa. Nhân vì lúc bấy giờ có điều mê tín rằng: ai giành lấy được thịt ngon, bánh lớn người đó sẽ thi đậu. Kim Thánh Thán lúc ấy vẫn còn mang tên Trương Nhược Tống không tin nên không tham gia vào mà chỉ đứng bên cạnh xem. Cảnh tượng đó khiến ông cảm khái, vì thế lập tức làm bài thơ châm biếm:
Thiên vãn tế tự liễu. Hốt nhiên náo sảo sảo. Tế nhục tranh phì sấu. Man đầu thưởng đại tiểu. Nhan Hồi đê đầu tiếu. Tử Lộ bả cước khiêu. Phu Tử vị nhiên thán: “Tại Trần ngã tuyệt lương. Vị kiến thử ngạ biễu”
(Trời chiều tối lễ tế xong. Bỗng nhiên huyên náo ồn ào. Tranh nhau thịt tế nạc mỡ. Giành nhau bánh tế lớn nhỏ. Nhan Hồi cúi đầu cười. Tử Lộ co chân chạy. Phu Tử cảm thán rằng: “Ta lúc ở đất Trần hết cả lương thực. Cũng chưa thấy cảnh chết đói này”)
Nhân trong bài có câu cảm thán của Khổng Tử, nên mượn để làm tên tự là “Thánh Thán”. Mọi người gọi tượng của Khổng Tử là “kim thân”, nên ông đã đổi họ Trương sang họ Kim. Như vậy, ông có tên là “Kim Thánh Thán”.
(“Trung Quốc nhân danh đích cố sự”, bản dịch của HCH - 05/4/2025)
P/s: Tranh st
Có thể là hình minh họa về võ thuật và văn bản
Tất cả cảm xúc:
7

Tuesday, April 1, 2025

Đã từng là thiếu niên lập chí ba ngàn dặm, nhưng nay ngập ngừng trăm bước vẫn không chút công danh

 https://www.facebook.com/watch?v=4036173033331287

Những lời giảng cho học sinh/sinh viên này ít gì đạt được 2 ý: Thứ nhất tưới mát nhiệt huyết thanh niên, ngăn ngừa hậu họa do bốc đồng tuổi trẻ; Thứ hai cung cấp một nhân sinh quan lành mạnh, từ ái cho tuổi trẻ, hạn chế nhảy cầu.



cung Phúc Đức

 https://www.facebook.com/groups/3972843719465979?multi_permalinks=9918382084912083&hoisted_section_header_type=recently_seen Trong Tử V...