https://www.dkn.tv/van-hoa/chu-nhan-trong-van-hoa-truyen-thong.html
Ý nghĩa của chữ Nhẫn trong tiếng Hán
Chữ Nhẫn trong tiếng Hán
Chữ Nhẫn trong tiếng Hán được ghép bởi 2 chữ tượng hình là chữ đao(刀) ở trên và chữ tâm(心 ) ở dưới. Hình ảnh chữ Nhẫn trong tiếng Hán khiến người ta liên tưởng tới việc đao đâm vào tim mà vẫn sống tốt, đó là nhờ việc tự biết kiếm chế bản thân, biết nhẫn nhịn để chờ thời cơ.
Tuy nhiên trong cuốn từ điển Hán-Việt được bậc bô lão cụ Đào Duy Anh giải thích như sau : Chữ Nhẫn tượng hình gồm chữ Nhận (刃) ở trên và chữ tâm(心) ở dưới chứ không phải chữ Đao ở trên. Ở đây chữ Nhẫn lại có nghĩa là mũi dao nhọn, gần giống nghĩa với chữ đao tượng hình.
Bên cạnh đó cũng có một số người nghiên cứu chuyên sâu về Hán Việt thì cho rằng chữ Nhẫn trong tiếng hán không phải đơn thuần là chữ Nhận, và cũng không đơn thuần có chữ Đao. Phải tinh ý lắm mới nhận ra được trong chữ Nhẫn có một nét phẩy của bộ phiệt ở dưới chữ đao, nếu tách ra sẽ thành chữ “nghệ”(刈) . Mà nghệ nghĩa là sự tài giỏi.Vậy chữ nhận có thể hiểu là gồm bộ ba “đao”, “nghệ” và tâm hợp thành.
Gươm đao đâm vào tim đau đớn biết nhường nào nhưng vẫn biết cách để chế ngự và có tài nghệ để vượt qua được mọi khó khăn để bình an,an lạc, thành công trong mọi việc. Nhận được sự tin yêu và quý mến của mọi người.
Nhẫn nhịn khiêm nhường là một mỹ đức truyền thống. Nội Thánh của Nho gia, Thủ Nhu của Đạo gia và Từ Bi của Phật gia đều bao hàm chữ Nhẫn. “Nhẫn một lúc sóng yên biển lặng, lùi một bước biển rộng trời cao”, thế nên có nhẫn nại thì mới có thành tựu.
Trong cuốn sách kinh điển của Nho giáo là “Thượng Thư”, Chu Thành Vương dặn dò Quân Trần rằng: “Nhất định phải Nhẫn thì việc mới thành. Tấm lòng bao dung thì mới có đức hạnh cao thượng”.
Khổng Tử nói: “Việc nhỏ không nhẫn, ắt làm hỏng việc lớn”, và: “Bậc quân tử không có điều gì phải tranh giành”.
Còn Lão Tử thì nói: “Đạo Trời không tranh mà luôn thắng, không nói mà vạn vật luôn hưởng ứng”.
Trong Phật giáo cũng giảng: “Trong sáu phép siêu độ (lục độ) và hàng vạn phương pháp tu hành (vạn hạnh), ‘Nhẫn’ là đệ nhất”.
Trong Luận Ngữ có rất nhiều ghi chép về đạo “Nhẫn”. Khổng Tử từng nói: “Việc nhỏ không nhẫn, ắt làm hỏng việc lớn”. Ông cũng nói: “Một khi phẫn nộ, quên mất cả người thân và bản thân, há chẳng hồ đồ lắm sao?”, và: “Bậc quân tử không có điều gì phải tranh giành”, “Quân tử nghiêm khắc mà không tranh”, ấy chính là đức Nhẫn vậy.
Luận Ngữ kể câu chuyện Khổng Tử từng răn dạy học trò của mình là Tử Lộ rằng: “Răng cứng nên mới dễ gãy, lưỡi mềm mới dễ bảo tồn. Mềm mại nhất định thắng cứng rắn, nhỏ yếu lại có thể thắng lớn mạnh. Ham tranh đấu nhất định sẽ bị tổn thương, một mực khoe dũng mãnh nhất định sẽ dẫn tới diệt vong. Thái độ căn bản để làm mọi việc là: Nhẫn nhịn là tốt nhất”.
Kinh thư Phật giáo từng ghi lại câu nói của Phật Thích Ca Mâu Ni: “Ta hiểu rõ cái tinh túy của ‘không tranh giành’, có thể nói là thiên hạ đệ nhất”.
Trong kinh Phật viết: “Làm người phẩm hạnh đoan chính, gương mặt kiền tịnh thanh khiết, dáng vẻ dung mạo tốt đẹp, những điều này đều là từ trong ‘Nhẫn’ mà đạt được”.
Trong Phật giáo có câu chuyện cổ, kể rằng:
Trước đây có người ca ngợi Đức Phật là bậc đại phúc đại đức. Một người nghe được rất tức giận, nói: “Sinh ra bảy ngày đã mất mẹ, làm sao có thể nói là đại phúc đại đức chứ?”.
Vị kia bèn đáp lại: “Cả tuổi tác và tư tưởng đều đến thời kỳ cực đỉnh mà vẫn không chết, bị đánh cũng không tức giận, bị mắng chửi cũng không mắng chửi lại. Như vậy chẳng phải là đại phúc đại đức sao?”.
Lão Tử giảng: “Cái Thiện bậc cao giống như nước, nước khéo làm lợi cho vạn vật mà không tranh”. Đại ý là đức hạnh chí cao vô thượng thì cũng giống như nước vậy, nước thiện lương ban phúc cho vạn vật mà không hề tranh đấu.
Lão Tử cũng nói: “Đạo Trời không tranh mà luôn thắng, không nói mà vạn vật luôn hưởng ứng”. Ý nghĩa là những sự vật phù hợp với quy luật tự nhiên thì không tranh đấu, nhưng lại khéo chiến thắng sự vật khác, không nói mà vạn vật đều hưởng ứng theo.
Người tu luyện Đạo gia cũng để lại rất nhiều lời bàn về chữ Nhẫn. Tử Hư Nguyên Quân nói: “Tha thứ, tha thứ, tha thứ, các chủng các dạng tai họa bỗng chốc biến mất. Nhẫn nhịn, nhẫn nhịn, nhẫn nhịn, chủ nợ và kẻ thù từ đó không còn”.
Xích Tùng Tử khuyên bảo đệ tử: “Có thể nhẫn nhịn thì sẽ không phải chịu nhục”.
Hứa Chân Quân nói: “Nhẫn chịu việc khó nhẫn, thuận theo người không ngừng tự cường”.
Còn Tôn Chân Quân thì giảng: “Nhẫn nhịn có thể khiến những chuyện xấu tự nhiên biến mất, tự phản tỉnh thì tai họa sẽ không đổ xuống thân mình”.
Sách “Dịch – Tốn quái” viết: “Người quân tử thì cần tiêu trừ tức giận và dục vọng”. Trong cuốn “Thượng Thư”, Chu Công từng nhắc nhở Chu Thành Vương rằng: “Người xấu oán hận ngài, trách mắng ngài, như vậy ngài cần phải nghiêm túc đức hạnh”.
Chu Công còn nói: “Không chỉ không được tức giận, mà còn phải mở rộng tấm lòng”.
Chu Thành Vương ghi nhớ lời dạy bảo của Chu Công, cũng đem lời dặn dò Quân Trần rằng: “Nhất định phải Nhẫn thì việc mới thành. Tấm lòng bao dung thì mới có đức hạnh cao thượng”.
Sách “Tả Truyện” có câu: “Một khi vì thẹn mà bất nhẫn, chẳng phải sẽ hổ thẹn cả đời sao?”.
Tả Truyện – năm Chiêu Công thứ nhất viết: “Người nước Lỗ dựa vào nhường nhịn lẫn nhau trị sửa quản lý quốc gia”.
“Tả Truyện – năm Ai Công thứ 27” có câu chuyện kể rằng:
Tri Bá trách Triệu Mạnh: “Ngài thật là không có dũng khí, dựa vào cái gì mà ngài có thể xưng là thầy đây?”.
Triệu Mạnh đáp: “Bởi vì tôi có thể nhẫn nại. Ông chế nhạo tôi, nhưng đối với Triệu Mạnh tôi đâu có tổn hại gì?”.
Trong dân gian có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ và ngạn ngữ rất hay về chữ Nhẫn:
“Một điều nhịn chín điều lành”.
“Chữ nhẫn là chữ tương vàng,
Ai mà nhẫn được thì càng sống lâu”.
Sách “Minh Đạo gia huấn” cũng viết về chữ Nhẫn như sau:
“Muốn cho trên dưới hòa thân
Nết quý là nhẫn muôn phần nhớ ghi
Vua tôi mà nhịn chút đi
Thế nước vững trọn làm gì chuyển lay
Cha con nhẫn được càng hay
Tự toàn gia đạo sau này ấm êm
Vợ chồng càng phải nhẫn thêm
Thì bày con trẻ khỏi điềm bơ vơ
Anh em nhẫn thì được nhờ
Gia trung khỏi sự thờ ơ nhạt nhòa
Nhịn bằng hữu sống hài hòa
Thì tình chẳng nhạt nghĩa xa hóa gần
Mỗi mỗi sự nhẫn tự thân
Người người yêu kính nhân nhân theo về”.
Gần đây trong dân gian có lưu truyền một bài thơ rất hay về đức Nhẫn, hàm chứa chữ Nhẫn của cả dân gian, Nho gia, Đạo gia và Phật gia:
“Có khi nhẫn để yêu thương
Có khi nhẫn để tìm đường lo toan
Có khi nhẫn để vẹn toàn
Có khi nhẫn để chớ tàn hại nhau.
Có khi nhẫn để xoay vần
Thiên thời, địa lợi, nhân tâm hiệp hòa
Có khi nhẫn để vị tha
Có khi nhẫn để thêm ta, bớt thù
Có khi nhẫn: tỉnh giả ngu
Hơn hơn, thiệt thiệt đường tu khó lường
Có khi nhẫn để vô thường
Không không, sắc sắc đoạn trường trần ai
Có khi nhẫn để lắng tai
Khôn khôn, dại dại nào ai tránh vòng
Có khi nhẫn để bao dung
Ta vui người cũng vui cùng có khi
Có khi nhẫn để tăng uy
Có khi nhẫn để kiên trì bền gan
Có khi nhẫn để an toàn
Có khi nhẫn để rõ ràng đúng sai
Bạn bè quan hệ nào ai
Có khi nhẫn để khinh người trọng ta
Xem ra cũng khó đó mà
Chữ Tâm, chữ Nhẫn ngẫm ra cũng gần”.
Có thể thấy, chữ Nhẫn có nội hàm vô cùng phong phú, không chỉ là phép đối nhân xử thế, mà còn là cảnh giới tinh thần của một nội tâm kiên định, mạnh mẽ, chế ngự được hoàn cảnh, trong nghịch cảnh vẫn có thể lấy khổ làm vui, có thể nhẫn được những điều mà người khác không thể nhẫn được.
Chữ Nhẫn có nhiều tầng thứ, từ cái nhẫn của người bình thường trong mối quan hệ gia đình, anh em, bạn bè, đồng nghiệp, quan hệ xã hội… cho đến cái nhẫn của người phẩm đức cao thượng, của vua sáng tôi hiền, và cuối cùng là cái nhẫn của người tu luyện khi đã đạt đến cảnh giới siêu thường, thoát tục.
No comments:
Post a Comment