https://www.facebook.com/huynhchuonghung/posts/pfbid02aEDGkxhuRjmUg6NysYEk726xjE62WHhtTHmqzWDPKVSF6ncXJqrAS5bvaDYWRkRql?__cft__[0]=AZUbfUUb6YzVkVRgVFKykQi1klxfxzCNu49I6BgPNOd3PPyCEmi3Uu30CbTbNEgbVD-pj__XWD1jf8HEidwjgdETf_f-QDC4upL1PPFPWZ1lijkGIbgv_zqzVX7FLhYSCmlo35TtQzZd2k3IzP_oadDp0m3SkRrVtCyo2X4lkTKCPs90rqW0xK7HCXerjcQ4wxKWNbgsn89Ko1CNqcYK2FnS&__tn__=%2CO%2CP-R
UỐNG RƯỢU TIÊU SẦU
Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy.
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời.
Tiêu khiển một vài chung lếu láo.
斷送一生惟有酒 Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu.
沉思百計不如閒. Trầm tư bách kế bất như nhàn.
Dưới thiều quang thấp thoáng bóng Nam san.
Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ.
Khoảng trời đất: cổ kim, kim cổ. Mảnh hình hài: không có, có không.
Lọ là thiên tứ, vạn chung.
Chú thích
1-Phù du 蜉蝣: con vờ, một thứ trùng nhỏ, sống dưới nước, mau chết lắm.
2-Câu 5,6: Thứ tốt nhất làm cho thời gian trôi qua chỉ có rượu; Nghĩ ngợi suy tư trăm ngàn kế chẳng bằng an nhàn.
3-Thiều quang 韶光: ánh sáng đẹp mùa xuân.
4-Nam san 南山: tức núi Chung Nam bên Tàu, nơi các ẩn sĩ thường tới ở.
5-Cửu hoàn 九寰: vũ trụ (chín cõi).
5-Thiên tứ vạn chung 千駟萬鍾: chỉ sự giàu sang. Nghìn cỗ xe bốn ngựa và vạn chung thóc: đó là bổng lộc mà các bậc phong hầu thời phong kiến được hưởng.
(“Việt văn độc bản”. Lớp Đệ Nhị: Đàm Xuân Thiều – Trần Trọng San. Bộ Văn hoá Giáo dục, 1965)