https://www.chuonghung.com/2024/07/dich-thuat-cach-at-ten-va-biet-hieu-cua.html
Bát nhã thang, HOAN BÁ, VONG ƯU VẬT, TẢO SẦU TRỬU, ĐIẾU THI CÂU
欢伯 忘忧物 扫愁帚 钓诗钩
Bát nhã thang
Nhà Phật cấm chỉ tăng nhân uống rượu, nhưng có tăng nhân lại lén uống, cho nên “Bát nhã thang” 般若汤 là ẩn ngữ của hoà thượng đối với rượu. Đậu Cách 窦革 đời Tống trong “Tửu phổ - Dị vực cửu” 酒谱 - 异域九viết rằng:
Thiên Trúc quốc vị tửu vi tô, kim bắc tăng đa vân Bát nhã thang. Cái sấu từ dĩ tị pháp cấm nhĩ, phi Thích điển sở xuất.
天竺谓酒为酥, 今北僧多云般若汤. 盖瘦词以避法禁尔, 非释典所出.
(Nước Thiên Trúc gọi rượu là tô, nay tăng nhân phương bắc đa phần gọi là Bát nhã thang, từ này dùng để tránh phép cấm, không phải xuất phát từ kinh sách nhà Phật.)
Tô Thức 苏轼trong “Đông Pha chí lâm – Quyển nhị - Tăng văn huân thực danh” 东坡志林 - 卷二 - 僧文荤食名có viết:
Tăng vị tửu vi ‘Bát nhã thang’ ngoại, hoàn xưng ngư vi ‘thuỷ thoa hoa’, kê vi ‘toản li thái’, đô thị ta yểm nhĩ đạo linh, tự khi khi nhân nhượng thế nhân trào tiếu đích bả hí bãi liễu.
僧谓酒为 ‘般若汤’ 外, 还称鱼为 ‘水梭花’, 鸡为 ‘钻篱菜’, 都是些掩耳盜铃, 自欺欺人让世人嘲笑的把戏罢了.
(Tăng nhân ngoài gọi tửu là “Bát nhã thang” ra, còn gọi cá là ‘thuỷ thoa hoa’, ‘gọi gà là ‘toản li thái’, đều là “bịt tai trộm chuông”, dối mình dối người như vở kịch để người đời chê cười mà thôi).
Về khởi nguyên của từ “Bát nhã thang”, trong “Thích thị hội yếu” 释氏会要có chép một truyền thuyết thú vị:
Vào những năm niên hiệu Trường Khánh 长庆đời Đường, có vị tăng nhân du phương đến một tự viện “quải đơn” 挂单 (đơn 单 chỉ “danh đơn” 名单của tăng đường; vị tăng hành cước đem tăng y của mình treo dưới danh đơn, ý nói vị tăng hành cước muốn nghỉ lại qua đêm ở tự viện), bảo thị giả trong tự viện mua rượu về, tự tăng đại nộ trách người nọ không tuân thủ quy củ, bèn đoạt lấy bình rượu nhắm đến cây bách mà vất, trong phút chốc bình rượu bị vỡ còn rượu toàn bộ lại ngưng đọng trên cây, vị du tăng đó nói rằng: ‘Ta tụng ‘Bát nhã kinh’, cần uống một li rượu, thì âm thanh mới vang.’ Bèn đem bình rượu hợp lại thu hồi rượu đã đổ, một giọt cũng không mất, sau đó ung dung đem rượu đổ vào bụng. Kì thực, đem rượu gọi là “Bát nhã thang” còn có một tầng ý nghĩa nữa: Bát nhã là danh từ trọng yếu nhất trong Phật học, nó là dịch âm từ Phạm văn, ý nghĩa là trí tuệ. Người ham thích rượu tất cho rằng rượu xuống bụng, tuy trầm tuý dễ quên đi phiền não nhưng mà biểu hiện lại đắc ý vong hình, thường vào lúc đó đột nhiên đốn ngộ được chân đế nhân sinh mà thường ngày không phát giác ra, giống như được “điểm hoá” mà tâm trí tăng lên gấp bội.
Hoan bá 欢伯
Rượu có thể mang hoan lạc đến cho con người, quên đi những phiền não, cho nên rượu cũng được xưng là “hoan bá” 欢伯. “Hoan bá” xuất hiện sớm nhất trong “Dịch lâm – Khảm chi đoài” 易林 - 坎之兌 của Tiêu Diên Thọ 焦延寿đời Hán:
Tửu vi hoan bá, trừ ưu lai lạc.
酒为欢伯, 除忧来乐
(Rượu là hoan bá, trừ bỏ những ưu phiền, mang đến niềm vui)
Đây cũng là một trong những nguyên nhân trọng yếu vì sao mọi người luôn không quên rượu.
Trong rất nhiều thơ từ cổ cũng từng dùng “hoan bá” 欢伯làm biệt hiệu của rượu, như Dương Vạn Lí 杨万里 đời Tống trong “Hoà Trọng Lương xuân vãn tức sự” 和仲良春晚即事bài thứ 4 có viết:
Bần nan sính hoan bá
Bệnh cảm khoá liên tiền
贫难聘欢伯
病敢跨连钱
(Lúc nghèo, khó mà mời được hoan bá đến vui
Khi bệnh, cũng không dám dùng tiền lãng phí)
Trong bài thơ “Đề Tương Trung quán” 题湘中馆có câu:
Sầu biên chính vô nại
Hoan bá nhất tương khai
愁边正无奈
欢伯一相开
(Có nỗi sầu bên cạnh không biết phải làm thế nào
Chỉ biết vui cùng hoan bá)
Tiền Khiêm Ích 钱谦益 đời Thanh trong “Thứ vận Từ tẩu Văn Hồng thất thập tự thọ” 次韵徐叟文虹七十自寿cũng viết rằng:
Phù sinh tác bạn giai hoan bá
Bạch nhãn khan nhân tức thuỵ hương
浮生作伴皆欢伯
白眼看人即睡乡
(Làm bạn chốn phù sinh này đều là hoan bá
Chẳng ai hợp ý, chỉ biết có ngủ say)
Vong ưu vật 忘忧物
Ý nghĩa cũng tương đồng với “hoan bá”, đều nêu tác dụng của rượu có thể khiến người ta hoan lạc. Thời Đông Tấn, Đào Tiềm 陶潜quy ẩn điền viên, vui thích rượu trong “Ẩm tửu” 饮酒bài thứ 7 viết rằng:
Phiếm thử vong ưu vật
Viễn ngã di thế tình
Nhất thương tuy độc tận (1)
Bôi tận hồ tự khuynh
泛此忘忧物
远我遗世情
一觞虽独尽 (1)
杯尽壶自傾
(Đem hoa cúc ngâm vào “vong ưu vật”
Uống vào khiến ta lánh xa được thế tình
Từng li tuy chỉ riêng mình uống hết
Li hết lại nghiêng bình rót thêm)
Bạch Cư Dị 白居易 đời Đường trong “Tiền Hồ Châu dĩ Nhược hạ tửu Lí Tô Châu dĩ ngũ đầu tửu tương thứ kí đáo Vô Nhân đồng ẩm liêu vịnh sở hoài” 钱湖州以箬下酒李苏州以五酘酒相次寄到无因同饮聊咏所怀:
Lao tương Nhược hạ vong ưu vật
Kí dữ Giang Thành ái tửu ông
劳将箬下忘忧物
寄与江城爱酒翁
(Đem Nhược hạ tửu, loại “vong ưu vật này
Gửi tặng cho ông lão thích rượu ở Giang Thành)
Tảo sầu trửu 扫愁帚, điếu thi câu 钓诗钩
Đương lúc tâm tình không được vui, uống li rượu vào “mượn rượu tiêu sầu”, “nhất tuý giải thiên sầu” 一醉解千愁(khi say có thể tiêu trừ ngàn nỗi sầu). Rượu giống như cây chổi, có thể quét sạch ưu sầu phiền não giống như quét bụi, nhưng thường sau khi tỉnh rượu thì lại “Cử bôi tiêu sầu sầu cánh sầu” 举杯消愁愁更愁 (nâng li tiêu tiêu sầu mà lại càng sầu thêm).
Rượu và văn nhân kết duyên với nhau. Lí Bạch 李白, Tô Đông Pha 苏东坡, Đào Uyên Minh 陶渊明, những người khổng lồ này trên văn đàn đều cực kì ham thích rượu. Văn nhân Trung Quốc lại nhân vì ngạo cốt, bản thân mình không chịu đồng lưu hợp ô, mà đa phần bất đắc chí, nhân đó mượn rượu giải sầu, rượu trở thành thứ không thể thiếu để họ ngâm thơ làm văn. Linh cảm lúc hơi say như dòng suối tuôn trào, ít nhiều những câu thơ hay ngàn xưa lưu truyền đến nay đều là thi nhân mượn rượu mà thành. Dựa vào đặc điểm này của rượu, đại văn hào Tô Đông Pha đời Tống ở lời tựa trong bài “Động Đình xuân sắc” 洞庭春色đã gọi rượu là “tảo sầu trửu” 扫愁帚 (chổi quét nỗi sầu), “điếu thi câu” 钓诗钩 (lưỡi câu câu thơ):
Yếu đương lập danh tự
Vị dụng vấn thăng đẩu
Ưng hô điếu thi câu
Diệc hiệu tảo sầu trửu
要当立名字
未用问升斗
应呼钓诗钩
亦号扫愁帚
(Muốn lập được danh tiếng
Chưa dùng đến tài thăng đẩu
Nên gọi đến điếu thi câu
Cũng có hiệu là tảo sầu trửu)
Trong lời tựa, người mà Tô Đông Pha nói đến trong “Động Đình xuân sắc” là An Định Quận Vương 安定郡王 (Triệu Thế Chuẩn 赵世準), rượu do ông ta ủ thành có được “tam tuyệt”, sắc, hương, vị đều tuyệt.
Chú của người dịch
1-Trong nguyên tác ở câu này là:
Nhất thương tuy do tiến
一觞虽犹进
Các tài liệu trên mạng đều là “Nhất thương tuy độc tận” 一觞虽独尽.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 18/7/2024
Nguồn
TỬU TỤC
酒俗
Tác giả: Từ Cẩn 徐谨
Thiên Tân: Thiên Tân nhân dân xuất bản xã, 2012.