Thursday, November 13, 2025

Hồi ký Nguyễn Hiến Lê

 

  1. Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải tạo cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại đã tiến về nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tùy khả năng mỗi người.
  2. Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một vị thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết bàn hay Thiên đàng.
  3. Quan niệm thiện ác thay đổi tùy nơi, tùy thời. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện, cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa mà hóa ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp; tới thời kỹ nghệ không còn lợi cho gia đình, xã hội nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức nhân, khoan hồng, công bằng, tự do, tự chủ,...
  4. Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân) thì mới gọi là đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thảy loài người thích sống tập thể, không có của riêng.
  5. Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, trị gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng, luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người.
  6. Nên trọng dư luận nhưng cũng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm.
  7. Mỗi người đã phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai trò thư sinh. Sống trong một gia đình êm ấm giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách mà được hàng vạn người hoan hô, mà còn có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn bạn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nhận một chức tước gì của chính quyền.
  8. Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.
  9. Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa, thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.
  10. Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân.
  11. Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập, cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ để họ đừng gây rối thôi; tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của một người.
  12. Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do thì không gọi là xã hội tự do được.
  13. Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh và lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều việc như vậy hay không.
  14. Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì sẽ mang họa vào thân.
  15. Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hợp ý mình; phải chung sống năm ba năm mới rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cả cá nhân ông bà lẫn xã hội. Hiện nay ở Mỹ có phong trang kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà có thể gây nhiều xáo trộn cho xã hội.
  16. Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng đàn bà nếu chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng rất tầm thường. Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lanhoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.
  17. Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được.
  18. Cơ hồ không thay đổi được bản tính con người: người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng có quy củ, kỷ luật, biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm; và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.
  19. Thay đổi bản tính con người như Mặc Tử, như Karl Marx muốn là chuyện không dễ một sớm một chiều. Thế giới còn những nước nhược tiểu nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng vậy. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ sẽ khai thác biển, đáy biển, Họ còn sống lâu. Tuy nhiên cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời nay đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi lần lần.
  20. Xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói, lúc thì âm (xấu) thắng, lúc thì dương (tốt) thắng; mà việc đời sau khi giải quyết xong việc này thì lại sinh ra việc khác liền; sau quẻ Ký tế (đã xong) tiếp ngay quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại cho các thế hệ sau.
  21. Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu quá. Nhưng hồi năm mươi tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.

Do not bother children when they are skateboarding - Đừng ngăn cản những đứa trẻ khi chúng đang trượt ván

 https://www.facebook.com/nguyentuanquynh1972/posts/pfbid026vao8DT9ETDdpHjNNLvsGtPfX4Yf6gk8Ua8A2F1mPDhQfqc77yoARj2hcmfTF9rPl

Jordan Peterson từng viết trong cuốn sách của mình: “Do not bother children when they are skateboarding.”
Đừng ngăn cản những đứa trẻ khi chúng đang trượt ván.
Nghe thì đơn giản, nhưng ý nghĩa sâu hơn rất nhiều: đừng cắt đứt những trải nghiệm giúp một con người học cách đối mặt với rủi ro, vượt qua nỗi sợ, và xây dựng lòng can đảm chỉ vì bạn muốn chúng an toàn theo cách bạn định nghĩa.
Chúng ta lớn lên trong một thế giới mà người lớn luôn cố bọc lũ trẻ bằng lớp chống sốc vô hình, bảo vệ chúng khỏi đau, khỏi thất bại, khỏi nguy hiểm. Nhưng cái giá phải trả cho sự an toàn tuyệt đối là một tâm hồn yếu đuối.
Một đứa trẻ không được phép té bao giờ sẽ trở thành người lớn không biết đứng dậy.
Một đứa trẻ không được phép mạo hiểm sẽ lớn lên với nỗi sợ hãi mọi thứ vượt ngoài vùng an toàn.
Một đứa trẻ không được phép thử sẽ trưởng thành mà luôn cần ai đó quyết định thay nó.
Peterson chỉ ra một điều: khi bạn ngăn lũ trẻ khỏi những rủi ro nhỏ, bạn đang đẩy chúng vào những thất bại lớn hơn khi trưởng thành. Vì không ai học được sự can đảm trong căn phòng kín hay trên ghế sofa.
Can đảm chỉ được sinh ra từ vết trầy đầu gối, cú ngã bất ngờ, khoảnh khắc đứng bật dậy lần thứ mười sau chín lần thất bại. Nhưng người lớn thường quên điều đó. Chúng ta muốn con cái, em út, học trò, người thân được an toàn tuyệt đối, nhưng lại không nhận ra rằng cuộc đời thật sự không phải nơi dành cho sự an toàn tuyệt đối.
Cuộc đời là nơi bạn phải biết cách chịu đau mà không ngã ngày gục, phải biết cách đứng dậy mà không cần ai nâng đỡ, phải biết cách đối diện với nguy hiểm mà không bỏ chạy.
Và những kỹ năng đó chỉ xuất hiện khi ta cho phép con người dù là trẻ em hay người trưởng thành. Tất cả phải được trải nghiệm rủi ro theo cách tự nhiên nhất.
Mọi đứa trẻ đang trượt ván đều đang học những bài học không sách vở nào dạy: cân bằng, dũng khí, tập trung, chịu trách nhiệm cho thân thể của mình, hiểu rằng hành động của mình có hậu quả. Khi bạn cấm đoán, bạn không chỉ lấy đi niềm vui của chúng; bạn lấy đi cả cơ hội hình thành bản lĩnh.
Xã hội ngày nay sinh ra một thế hệ những người lớn dễ tổn thương, dễ sợ hãi, dễ buông bỏ, vì họ chưa từng được phép đối mặt với rủi ro nhỏ từ thuở bé.
Họ không thiếu tri thức, nhưng thiếu sức mạnh nội tâm.
Không thiếu tiện nghi, nhưng thiếu khả năng đương đầu. Không thiếu lời khuyên, nhưng thiếu va chạm thật.
Cuộc đời này không dành cho những ai chỉ biết sợ. Nhưng để không sợ, bạn phải từng liều. Để mạnh mẽ, bạn phải từng té. Để trưởng thành, bạn phải từng đối mặt với thứ làm bạn run rẩy.
Vậy nên, khi Peterson nói “Đừng làm phiền những đứa trẻ khi chúng đang trượt ván”, ông đang nói rằng: đừng tước đi của một con người cơ hội trở nên mạnh mẽ hơn.
Và điều này không chỉ đúng với trẻ em. Nó đúng với bất kỳ ai đang cố thử một điều mới, đang tập đứng lên sau một lần vấp ngã, đang liều lĩnh đi trái với những khuôn mẫu an toàn mà người khác dựng lên.
Đừng cản một người đang cố can đảm.
Đừng dập tắt sự táo bạo của ai đó chỉ vì bạn sợ giúp họ quá trễ.
Đừng bảo một người thôi dấn thân chỉ vì bạn từng thất bại.
Nỗi sợ thuộc về bạn, không phải họ.
Can đảm là thứ mỗi người phải tự học, và bài học ấy luôn đi kèm vài vết trầy.
Nhưng chính những vết trầy đó giúp họ trở thành người không bỏ cuộc trước cuộc đời.
Đôi khi, thứ tốt nhất ta có thể làm cho người mình thương là lùi một bước, im lặng, và để họ té một chút.
Vì con người không lớn lên trong sự an toàn tuyệt đối.
Con người lớn lên trong tự do đủ rộng để vấp ngã và đứng lên.
Bài viết tham khảo từ cuốn sách:12 Quy Luật Cuộc Đời: Thần Dược Cho Cuộc Sống Hiện Đại.

Friday, September 26, 2025

 https://www.facebook.com/huynhchuonghung/posts/pfbid02aEDGkxhuRjmUg6NysYEk726xjE62WHhtTHmqzWDPKVSF6ncXJqrAS5bvaDYWRkRql?__cft__[0]=AZUbfUUb6YzVkVRgVFKykQi1klxfxzCNu49I6BgPNOd3PPyCEmi3Uu30CbTbNEgbVD-pj__XWD1jf8HEidwjgdETf_f-QDC4upL1PPFPWZ1lijkGIbgv_zqzVX7FLhYSCmlo35TtQzZd2k3IzP_oadDp0m3SkRrVtCyo2X4lkTKCPs90rqW0xK7HCXerjcQ4wxKWNbgsn89Ko1CNqcYK2FnS&__tn__=%2CO%2CP-R

UỐNG RƯỢU TIÊU SẦU
Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy.
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.
Thôi công đâu chuốc lấy sự đời.
Tiêu khiển một vài chung lếu láo.

斷送一生惟有酒 Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu.
沉思百計不如閒. Trầm tư bách kế bất như nhàn.

Dưới thiều quang thấp thoáng bóng Nam san.
Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ.
Khoảng trời đất: cổ kim, kim cổ. Mảnh hình hài: không có, có không.
Lọ là thiên tứ, vạn chung.

Chú thích
1-Phù du 蜉蝣: con vờ, một thứ trùng nhỏ, sống dưới nước, mau chết lắm.
2-Câu 5,6: Thứ tốt nhất làm cho thời gian trôi qua chỉ có rượu; Nghĩ ngợi suy tư trăm ngàn kế chẳng bằng an nhàn.
3-Thiều quang 韶光: ánh sáng đẹp mùa xuân.
4-Nam san 南山: tức núi Chung Nam bên Tàu, nơi các ẩn sĩ thường tới ở.
5-Cửu hoàn 九寰: vũ trụ (chín cõi).
5-Thiên tứ vạn chung 千駟萬鍾: chỉ sự giàu sang. Nghìn cỗ xe bốn ngựa và vạn chung thóc: đó là bổng lộc mà các bậc phong hầu thời phong kiến được hưởng.
(“Việt văn độc bản”. Lớp Đệ Nhị: Đàm Xuân Thiều – Trần Trọng San. Bộ Văn hoá Giáo dục, 1965)

Thursday, July 17, 2025

Mỹ nhân tự cổ như danh tướng Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu

 http://chimviet.free.fr/vanhoc/nguyenkhoi/ngkhoin054_mynhantuco.htm

VỀ CÂU THƠ " MỸ NHÂN TỰ CỔ NHƯ DANH TƯỚNG "

Nguyễn Khôi 

Giới làm thơ ngày trước ai mà chả thuộc 2 câu thơ cổ :
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu
tạm dịch :
(Người đẹp từ xưa như tướng giỏi
Chẳng hẹn chờ ai thấy bạc đầu )
Còn xuất xứ 2 câu này ở đâu ? ( Đường thi, Tống thi ư ? chủ nhân của 2 câu thơ bất hủ đó là của ai ?...thì để còn " hỏi Thầy" , tra cứu kho tàng chữ nghĩa Trung Hoa đã ? Rồi ậm ừ qua vài trăm năm...có dư...

Thế rồi, có một " con mọt sách " ĐỤC xuyên qua cuốn " Tùy Viên thi thoại " của Viên Mai (đời Thanh) gồm 16 quyển và 10 quyển " bổ di " - tổng cộng là 26 quyển. dịch ra tiếng Việt dày ngót 1000 trang , khổ 16×24...đó là một thứ " tùy bút " nhàn đàm về Thơ, với quan điểm :

Chịu khó tìm Thơ sẽ có Thơ
Tâm linh điểm ấy chính Thầy ta
mà điều kiện cần có của Người làm thơ là 3 chữ " tài, học và thức (kiến thức)- thiếu 1 đều không được !

Tùy Viên tiên sinh kể rằng : Người bạn (của ta) là Quan Thị độc( cỡ Viện trưởng-cố vấn cho vua ) họ Đông có việc phải rời Kinh thành đi Thiên Tân công cán, qua nhà họ Tra, gặp Tiến sĩ Đồng Duệ, vị Tiến sĩ này có nói rằng :
- Thân mẫu Triệu phu nhân, không may sớm là góa phụ, đã ở vậy thờ phụ thân (không tái giá) nuôi dạy con cái nên người, lại hay chữ nghiã, thường làm Thơ...có bài tuyệt cú " cúng ông Táo " như sau :

Tái bái Đông Trù Tư mệnh thần
Liêu tương thanh thủy tiễn hành trần
Niên niên phá ốc đa khôi (hôi) thổ
Tu thứ phu vong tử ấu nhân
Dịch :
Cúi đầu lạy tạ tiễn ông Công
Lễ bạc dâng lên chén nước trong
Nhà nát quanh năm tro bụi bám
Con côi mẹ góa thấu cho lòng.


Xin một lần nữa thần bếp Đông trù tư mệnh,
Gọi là có chén nước trắng kính cẩn làm lễ tiễn hành ngài lên cầu trời
Năm này qua năm khác nhà bụi đất nhiều lắm
Ngài rộng lượng cho với, chồng thì đã qua đời rồi, con còn nhỏ

 

Nhân đó, vị Tiến sĩ này kể thêm : " Chú của tiểu nhân, có làm bài " Điệu vong cơ " , khóc Người thiếp (vợ lẽ) qua đời, nhiều người họa lại...trong đó có bài của Người thiếp họ Đông , tên là Diễm Tuyết, thì thật là tuyệt diệu. 2 câu kết của bài rằng :
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng
Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu
2 câu này, có tứ thơ khá gần với câu sau đây của thi sĩ Lạp Điền (đời Tống) :
Bạch phát tòng vô đáo mỹ nhân
(mái đầu tóc bạc từ nay trở đi không bao giờ đến với người đẹp cả...)
Lời bàn thêm :

Thật đúng như Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã nói :

Văn chương là của chung thiên hạ
Ý mỗi người mỗi khác
Phân tích thì được
Chứ không nên chê mắng.
Còn André Chénier (Pháp) thì viết :
Nghệ thuật chỉ làm nên bài thơ
Còn trái tim mới là Thi sĩ
Ở ta, năm 1934 Thi sĩ Leiba (Lê văn Bái ) đẫ tâm đắc :
Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai ?
Thế mới biết tài tử giai nhân xưa nay đều có chung một một " nỗi sầu nghìn thu " rồi cùng làm thơ là vậy ?
Góc Thành Nam Hà Nội -25-8-2010
Nguyễn Khôi-

Khoảnh khắc (Jorge Luis Borges)

 https://www.facebook.com/linhvuh/posts/pfbid0H6gwPeHvQGBqV9DsuZa7xcFn51xcsKKt29bGd4toYtTssYuHLWpzTJPCnyJRiopVl?__cft__[0]=AZUl17blHiKaD4nDyclHOOqcyleTL1MBpZUH3s0XQP7tHoCBxUvii90aEUw0Bd6SntPyezBKmhLelJxA-kfzX6Np9RLpQZypy5R1pfCvaUjQWpklUg2baiahJhs6nKVipNMIm-lIJv3sqr1aQrI_D4b6kw5iUPPma_hvkKkyroyIPkEI3G3n2xs3atVsrfNNQ1o&__tn__=%2CO%2CP-R

Khoảnh khắc

(Jorge Luis Borges)
Nếu tôi có thể sống lại cuộc đời
Tôi sẽ thử
Phạm nhiều sai lầm hơn
Tôi sẽ không cố trở nên hoàn hảo
Tôi sẽ sống thoải mái
Tôi sẽ sống đủ đầy- hơn tôi hôm nay.
Tôi sẽ ít coi trọng mọi sự
Tôi sẽ ít ăn ở vệ sinh
Tôi sẽ mạo hiểm hơn
Tôi sẽ đi nhiều hơn
Tôi sẽ ngắm những hoàng hôn
Tôi sẽ leo những ngọn núi
Tôi sẽ bơi trên nhiều dòng sông
Tôi sẽ đến những nơi mà tôi chưa từng đến,
Tôi sẽ ăn nhiều kem và ít đậu
Tôi sẽ gặp nhiều vấn đề thực sự -
và ít thứ tự tưởng tượng ra
Tôi là một trong những người
sống cuộc đời cẩn trọng, chăm chú
-trong mỗi phút cuộc đời.
Tất nhiên tôi từng có niềm vui
Nhưng nếu tôi có thể trở lại
Tôi sẽ sống chỉ với niềm vui
Nếu bạn không biết- thế nào là cuộc đời
Đừng đánh mất khoảnh khắc này!
Tôi là một trong những kẻ không bao giờ đi xa
Nếu không có thân nhiệt kế
Nếu không có bình nước ấm
Nếu không có ô và không có dù,
Nếu có thể sống lại- tôi sẽ đi lại với ít đồ đạc
Nếu tôi có thể sống lại- tôi sẽ gắng làm việc với đôi chân trần
Từ đầu mùa xuân
Đến cuối mùa thu,
Tôi sẽ rong ruổi trên những chuyến xe ngựa,
Tôi sẽ ngắm nhiều hoàng hôn và chơi với nhiều trẻ con
Nếu tôi có thể sống lại cuộc đời
Nhưng tôi đã tám mươi nhăm tuổi
Và tôi biết mình đang chết.
***

Sunday, July 6, 2025

Dĩ huyễn độ chơn

 https://petrotimes.vn/nha-nghien-cuu-van-hoa-huynh-ngoc-trang-phat-trien-van-hoa-vai-tro-cua-hoc-gia-rat-quan-trong-263896.html

PV: Ông có thể giải thích vì sao hiện tượng lễ cúng sao giải hạn đang diễn ra rầm rộ trong các nhà chùa hiện nay?

NNCVH Huỳnh Ngọc Trảng: Từ ngàn xưa trong nhà Phật đã có lễ cầu an cho người sống và cầu siêu cho người đã khuất. Tuy nhiên, hiện nay trong các nhà chùa, nhất là vào dịp Rằm tháng Giêng thì lễ cúng sao giải hạn diễn ra rất nhiều nhưng tín ngưỡng của Đạo giáo này không nằm trong giáo lý nhà Phật. Ba năm trở lại đây, vào tháng Giêng, nhiều nhà chùa ở TP HCM tiến hành cúng Phật Dược sư (còn gọi là Dược Sư Lưu Ly Quang Phật, với đầy đủ tín - nguyện - hạnh và niệm đến nhất tâm, người niệm sẽ được phước báo vô lượng, tiêu trừ tất cả bệnh khổ, thân tâm an lạc…) phù hợp với nhà Phật, có lẽ nhằm thay thế dần tục cúng sao hội  trong nhà chùa.

Nhà nghiên cứu văn hóa Huỳnh Ngọc Trảng

Còn cúng sao là một hình thức tín ngưỡng dân gian, năm nào ai bị hạn ngôi sao nào thì cúng giải. Khi người ta có hạn nào đó thì có lễ cúng sao cá nhân từng gia đình. Ngày đó - tháng đó - năm đó bị mắc sao nào cúng sao đó. Sau này có lễ cúng sao tập thể ở đình miếu, sau đó thâm nhập vào nhà chùa. Bây giờ cúng sao chủ yếu cầu an cho bản thân. Ai muốn thì cúng. Bây giờ người ta cầu cúng đủ thứ, các cơ sở tín ngưỡng tổ chức thành dịch vụ quy mô và tất nhiên là có thu tiền.

PV: Nhà chùa bây giờ đều có lịch cúng bài bản, kèm lời “quảng cáo” để chúng sinh sắp xếp thời gian đến cúng kiếng, nghe có lời PR để kinh doanh một mặt hàng. Ông nghĩ thế nào về việc này?

NNCVH Huỳnh Ngọc Trảng: Trên thực tế nhà chùa nào cũng có đăng ký cầu an, cầu siêu. Phật tử đến đăng ký rồi đóng tiền cho nhà chùa. Đứng trên mặt tôn giáo tín ngưỡng thì không thể nói được vì đây là niềm tin của tín đồ Phật tử, tuy nhiên, xét ở khía cạnh khác, cách làm của nhà chùa mang tính chất kinh doanh có quy mô. Nhưng ba năm trở lại đây cũng không phê phán được khi đây là niềm tin tôn giáo tín ngưỡng của bá tánh vì họ cúng Phật Dược sư chứ không phải cúng sao giải hạn của Đạo giáo. Trên thực tế có chùa cúng và có chùa không cúng. Và như tôi biết thì có những ngôi chùa phê phán chuyện đốt vàng mã trong chùa.

PV: Có thực tế rằng, chùa chiền ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam có khá nhiều khác biệt. Và tại sao chùa ở miền Bắc cúng và đốt vàng mã rất nhiều, khác với các ngôi chùa trong Nam, thưa ông?

NNCVH Huỳnh Ngọc Trảng: Do đặc điểm lịch sử, tôn giáo tín ngưỡng để lại, chùa ở miền Bắc có đặc điểm là tiền Phật - hậu thánh (thờ mẫu Thoải, mẫu Thượng Ngàn…), dung nạp tín ngưỡng dân gian vào nhà chùa. Ở trong Nam một số chùa có thờ Quan Công và thờ Bà/nữ thần nhưng vị trí không quan trọng. Tuy nhiên, chùa ngoài Bắc, người dân đến cúng Phật và thờ Thánh, có cả lên đồng trong một số chùa. Do đó, tín ngưỡng dân gian lấn át. Trong khi Đức Phật là đấng giác ngộ và không ban phước, giáng họa cho ai cả mà chỉ cho ta con đường tự giác ngộ bản thân mà thôi. Chứ không phải đấng chí tôn như Trời trong tín ngưỡng. Và Thánh thì ban phước, giáng họa mà người dân chủ yếu cầu ban phước, điều may… nên chúng ta thấy vì sao không gian, không khí người dân đi chùa chiền ở miền Bắc khác ở miền Trung và miền Nam. Nhưng chính hoạt động cầu cúng, cầu an, cầu phước, cầu lộc, cúng sao của tín ngưỡng dân gian ấy đã đem lại nguồn thu không nhỏ cho nhà chùa. Và đây là nguồn thu quan trọng cho nhà chùa tồn tại. Hai vấn đề có mối quan hệ hữu cơ với nhau.

Còn nếu nhà Phật chỉ tu theo chánh tín để chúng sanh tự giác ngộ thì không dễ và không nhiều. Thực tế, người dân đến nhà chùa cầu xin nhiều hơn là để mưu cầu giác ngộ. Tuy nhiên, trong chùa Phật, đều có thờ Quan Âm Bồ Tát và Địa Tạng. Đức Quan Âm - độ sinh có chức năng cứu khổ cứu nạn, có công năng phù hộ cho người sống tránh khổ nạn. Một bên là Địa Tạng là độ tử, để Phật tử cầu siêu cho ân nhân, người thân của mình được siêu thoát. Thực sự Phật giáo chỉ có giác ngộ bản thân, còn giờ cúng kiếng nhiều thứ như thế được nhà chùa gọi là “Dĩ huyễn độ chơn”, dùng huyễn hoặc để độ chúng sanh, đưa chúng sanh vào con đường chánh pháp nhưng sự thật thì rất khó thực hiện. Cuối cùng, phần “huyễn” hiện ra rõ rệt, còn chơn pháp - chánh pháp thì mờ mịt quá. Nói lý thuyết thì đúng nhưng để thực hành thì rất khó vì khi “Dĩ huyễn” thì lắm khi chúng sanh đã đắm chìm trong huyễn hoặc rồi.

PV: Nghĩa là từ xưa đến giờ, Phật giáo đã dùng phương tiện “Dĩ huyễn độ chơn” để độ chúng sanh nhưng có bao giờ chúng sanh tin vào niềm huyễn hoặc nhiều như bây giờ không thưa ông?

NNCVH Huỳnh Ngọc Trảng: “Dĩ huyễn độ chơn” tồn tại từ xưa đến giờ, tuy nhiên ngày nay cái phần huyễn hoặc trở thành niềm tin của chúng sinh có lẽ do xã hội bị khủng hoảng niềm tin nhiều quá. Khi người ta gõ vào cánh cửa cuộc đời để mưu cầu điều cần thiết một cách chân chính mà không được thì phải gõ vào những cánh cửa khác. Chính cái bất công đó làm những người chân chính nhất cũng mất niềm tin vào xã hội. Ngay bản thân một số quan chức cùng vợ con đi cầu cúng rất nhiều, đó cũng chính là biểu hiện sự khủng hoảng về niềm tin.

Người dân đi chùa vào dịp Rằm tháng Giêng (âm lịch)

PV: Sau thời kỳ đổi mới, chúng ta chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc? Ông thấy rằng chủ trương này giữa lý thuyết và thực tiễn đã phù hợp?

NNCVH Huỳnh Ngọc Trảng: Muốn phân tích vấn đề này, phải nhìn nhận vào hai việc. Thứ nhất, sau năm 1975, cổ súy xây dựng một lối sống mới, nếp văn hóa mới, nền văn hóa mới. Xuất phát từ chủ nghĩa hư vô về truyền thống, cho rằng cái gì thuộc về truyền thống ấy là lạc hậu, là sản phẩm của phong kiến, đế quốc… sau này chủ trương quay về giá trị truyền thống; nhưng khổ là trở về truyền thống một cách vồ vập, không chọn lọc khiến chúng ta đi từ tình trạng bất cập đến thái quá. Những hủ tục lạc hậu, hình thức mê tín dị đoan, cúng kiếng đủ thứ… nương vào danh nghĩa bản sắc văn hóa, truyền thống văn hóa trỗi dậy như âm binh.

PV: Thưa ông, có cảm giác rằng, hiện nay mọi người đi chùa chiền, đình, miếu hướng đến giá trị linh thiêng là chính?

NNCVH Huỳnh Ngọc Trảng: Đúng là ở xứ mình, trong xã hội ngày nay người ta hướng đến giá trị linh thiêng chứ không phải giá trị thiêng liêng. Trong khi nhu cầu tâm linh là nhu cầu hướng thượng, hướng đến những giá trị chân - thiện - mỹ, hướng đến giá trị thiêng liêng, làm cho con người thoát khỏi thân phận bầy ong, con kiến… Trong xã hội ngày xưa thì giá trị linh thiêng là chủ đạo, quy luật vũ trụ chi phối khi con người chủ yếu làm nông nghiệp, lệ thuộc vào sự chuyển vần của tứ thời bát tiết, tự nhiên chi phối con người và con người sống như là mô phỏng ý đồ của vũ trụ nên con người dựa và tin vào giá trị linh thiêng… Còn xã hội đương đại thì quy luật xã hội chi phối, chúng ta hướng đến giá trị thiêng liêng. Đó là sự khác biệt rõ rệt cần phải lưu ý.

Vai trò của chuyên gia rất quan trọng

PV: Như vậy, lúc này vai trò của học giả, những nhà nghiên cứu rất quan trọng, phải tư vấn cho nhà làm chính sách biết sàng lọc những truyền thống nào cần giữ và bản sắc nào không cần phục hưng chứ thưa ông?

NNCVH Huỳnh Ngọc Trảng: Đúng vậy, nhưng tiếc là có nhiều người trong học giới lại đi cổ súy những bản sắc đã quá lạc hậu không nên tồn tại trong xã hội này. Như hiện tượng đồng bóng trong đạo Mẫu từ đầu thế kỷ XX đã bị phê phán là mê tín dị đoan. Chính nhà thơ Trần Tế Xương đã viết: “Chị em thỏ thẻ đêm thanh vắng/Không sướng gì hơn lúc thượng đồng”. Tức từ thời Trần Tế Xương đã phê phán rồi. Trước đó các nhà nước phong kiến đều bài trừ, từ thời Lý Thường Kiệt đã phê phán dữ dội rồi, đến triều Nguyễn, Gia Long lên ngôi cũng luôn bài trừ đồng bóng. Đây là tín ngưỡng thuộc sa man giáo có từ thời cổ đại, cầu những thế lực thần linh nhập đồng nhập cốt. Đến thời thực dân Pháp cai trị nước ta cũng bài trừ, thời kỳ này, trong các dòng văn học phê phán đã phê phán hiện tượng này rất gay gắt. Nhóm Tự lực văn đoàn đã làm cuộc cách mạng văn hóa lớn, phê phán chuyện đồng bóng, tàn nhang nước thải... Nhưng đến giai đoạn đổi mới, với chủ trương xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc thì đồng bóng từ lễ hội Phủ Dầy… được phục hưng một cách dữ dội. Riêng thủ đô Hà Nội có trên 1.000 cơ sở lên đồng.

Đi chùa cầu an, cầu tài, cầu lộc là nhu cầu của nhiều người dân

Họ nhân danh văn hóa truyền thống mà có biết bao nhiêu hội thảo về hầu đồng được tổ chức, Lễ hội Phủ Dầy được phục dựng thành di tích. Cái sai này là thay vì nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu để chọn lọc mà kế thừa lại tự mình trở thành tín đồ của truyền thống. Dù rằng, giá trị truyền thống có cái tốt nhưng có những cái cản trở sự phát triển và nếu chúng ta làm tín đồ của truyền thống thì coi như thất bại rồi. Nếu nhìn dưới con mắt nhà văn hóa, phải biết cái gì tiến bộ - cái gì lạc hậu; cái gì nguy hiểm - cái gì lợi ích để chọn lọc.

PV: Hiện nay đang có hai xu hướng, một là bảo tồn nguyên bản những giá trị văn hóa truyền thống, hai là giao lưu tiếp biến văn hóa một cách có chọn lọc phù hợp quy luật phát triển của xã hội? Còn quan điểm của ông?

NNCVH Huỳnh Ngọc Trảng: Chúng ta phải biết rằng, văn hóa có hai đặc điểm cơ bản, một là học tập được và hai là luôn thay đổi chứ văn hóa không di truyền như sinh học, bất biến. Ở nước ta, theo nghiên cứu địa lý lịch sử, từ phía Bắc Đèo Ngang trở ra thì bị Hán hóa, từ Nam Đèo Ngang trở vào thì bị Ấn hóa. Hai vùng đất chịu hai dấu ấn của hai nền văn hóa lớn. Ngay từ thời cổ đại, truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ cho thấy, Lạc Long Quân thờ tô tem rắn kết hôn với Âu Cơ thờ tô tem chim. Hai bộ lạc thờ hai con vật, biểu tượng văn hóa khác nhau, họ liên minh bộ tộc để tồn tại. Kể từ đó, văn hóa Việt Nam đã là giao lưu văn hóa rồi. Do đó, quy luật vận động của văn hóa Việt Nam được hình thành theo không gian từ miền núi xuống đồng bằng và theo thời gian là từ Bắc vào Nam. Mỗi tọa độ địa lý - lịch sử thì văn hóa Việt Nam tổng hợp giữa cái mới và cái cũ, tích hợp giữa nội sinh và ngoại sinh. Các quốc gia trên thế giới đều thế chứ không riêng gì Việt Nam. Không có một cục bản sắc vẫn giữ nguyên vẹn từ xưa đến nay.

PV: Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này!

Người Quân tử khi có địa vị nên biết an phận để nuôi dưỡng Phúc Đức

 https://www.facebook.com/reel/1885850882335674