Thursday, March 27, 2025

TRỊ THẾ NĂNG THẦN, LOẠN THẾ GIAN HÙNG

 https://www.chuonghung.com/2025/03/dich-thuat-tri-nang-than-loan-gian-hung.html

 

TRỊ THẾ NĂNG THẦN, LOẠN THẾ GIAN HÙNG

Tào Tháo 曹操lúc còn trẻ, rất nhạy bén lại có quyền thuật, nhưng thích phòng túng làm việc nghĩa, không chịu tìm một nghề nghiệp chính đáng, không để người đời biết đến. Kiều Huyền 桥玄người nước Lương , Hà Ngung 何颙người Nam Dương 南阳gặp Tào Tháo vô cùng tán thưởng ông.

          Kiều Huyền làm quan tới chức Thái Uý 太尉triều Hán, nổi tiếng biết người và giỏi nhậm dụng họ. Kiều Huyền rất coi trọng Tào Tháo, từng nói với Tào Tháo:

          -Ta đã gặp nhiều danh sĩ trong thiên hạ, nhưng chưa gặp được người nào như ông. Ta nay đã già, muốn đem vợ con kí thác nơi ông.

          Đương thời, anh em Hứa Tĩnh 许靖, Hứa Thiệu 许劭người Nhữ Nam  汝南giỏi việc bình phẩm nhân vật, mỗi tháng bình một lần, gọi là “Nhữ Nam nguyệt đán bình” 汝南月旦评. Kiều Huyền nói với Tào Tháo:

-Danh khí của ông lớn, ông có thể đi gặp Hứa Thiệu.

          Quả nhiên Tào Tháo đi gặp Hứa Thiệu, hỏi rằng:

          -Tôi là người như thế nào?

          Hứa Thiệu quan sát Tào Tháo một lúc, nhưng không trả lời. Tào Tháo đôi ba lần gặng hỏi, mong Hứa Thiệu trả lời. Hứa Thiệu nói với Tào Tháo rằng:

          -Ông là “trị thế chi năng thần, loạn thế chi gian hùng.” 治世之能臣乱世之奸雄 (đời thịnh là một bề tôi giỏi, đời loạn là một gian hùng).

          Tào Tháo cười lớn, thế là người đời đều biết.

                                                                Huỳnh Chương Hưng

                                                            Quy Nhơn 21/3/2025

Nhất thất túc vi thiên cổ hận

 https://www.chuonghung.com/2025/03/dich-thuat-that-tuc-du-hoi-au-tieu-song.html

 

失足与回头

一失足为千古恨 (1),

再回头是百年人 (2).

(陈继儒小窗幽记) 

THẤT TÚC DỮ HỒI ĐẦU

Nhất thất túc vi thiên cổ hận (1),

Tái hồi đầu thị bách niên nhân (2).

(Trần Kế Nho: Tiểu song u kí)

Chú thích

1-Nhất thất túc 一失足: do vì không cẩn thận mà phạm sai lầm.

          Thiên cổ hận 千古恨: sự hối hận ngàn năm.

2-Bách niên nhân 百年人: người tuổi đã cao. 

Dịch nghĩa

SẨY CHÂN LẦM LỖI VÀ QUAY ĐẦU LẠI

          Do nhất thời không cẩn thận mà phạm phải sai lầm, sẽ gây nên sự ân hận cả đời. Đợi đến khi phát giác hối hận quay đầu lại thì lúc đó đã già không thể cứu vãn.

Phân tích và thưởng thức

          Đời người, thường phạm phải sai lầm, nhưng như Khổng Tử từng nói “bất nhị quá” 不二过 (không mắc phải hai lần một lỗi như thê), chính là nói, không nên phạm phải sai lầm như thế. Con người khi còn nhỏ, phạm sai lầm có thể được sự chỉ dạy của bậc sư trưởng sửa đổi, nhưng khi đã trưởng thành, có một số sai lầm khi mắc phải rất khó cứu vãn, sẽ gây nên sự ân hận cả đời, có thể nói là “Nhất thất túc thành thiên cổ hận”一失足成千古恨. Có lúc nhân vì chúng ta tự tin, nhân vì cố chấp, cứ mạnh dạn bước tới, đến khi phát hiện sai lầm thì không thể cứu vãn được, tóc lại bạc thân thêm suy, sinh mệnh không cho ta cơ hội. Sinh mệnh tuy ngắn ngủi, đường rẽ lại nhiều, lỡ sẩy chân không chỉ mang đến nỗi đau cho thân thể, mà còn mang đến nỗi bi thương cho tâm hồn. Nhân đó, chúng ta trên con đường tiến bước phải nắm chắc bản thân mình, hết sức tránh mắc phải lỗi lầm mà có thể gây nên bi kịch khó cứu. Đương nhiên, “lãng tử hồi đầu kim bất hoán” 浪子回头金不換 (lãng tử phạm sai lầm mà biết hối cải thì cực kì quý báu đến vàng cũng không thể đổi), một khi mắc sai lầm, nhất định phải sửa chữa đổi mới để tránh bi kịch tái diễn.

Trần Kế Nho 陈继儒 (1558 – 1639): văn học gia, thư hoạ gia đời Minh, tự Trọng Thuần 仲醇, hiệu Mi Công 眉公, người Hoa Đình 华亭 Tùng Giang 松江 (nay là Tùng Giang Thượng Hải).

Trần Kế Nho lúc nhỏ đã thông minh, ông học rộng biết nhiều, giỏi cả thơ lẫn văn, về thư pháp theo Tô Thức 苏轼, Mễ Phế 米芾 nổi tiếng một thời. Khoảng những năm hai mươi mấy tuổi, ông tuyệt ý với khoa cử, ẩn cư tại Tiểu Côn sơn 小昆山, sau cất nhà tại Đông Xà 东佘 suốt ngày đóng cửa viết sách. Triều đình nhiều lần cho mời nhưng ông đều lấy cớ bệnh tật từ chối.

Trần Kế Nho cả một đời đọc rất nhiều, trứ thuật cũng đồ sộ phong phú. Tác phẩm của ông có Trần Mi Công toàn tập 陈眉公全集  truyền đời.

Nguồn http://www.360doc.com/content

                                                                       Huỳnh Chương Hưng

                                                                       Quy Nhơn 25/3/2025

Monday, March 24, 2025

VỊ THIÊN ĐỊA LẬP TÂM, VỊ SINH DÂN LẬP MỆNH

 https://www.chuonghung.com/2020/12/dich-thuat-vi-thien-ia-lap-tam-vi-sinh.html

 

VỊ THIÊN ĐỊA LẬP TÂM, VỊ SINH DÂN LẬP MỆNH

VỊ VÃNG THÁNH KẾ TUYỆT HỌC, VỊ VẠN THẾ KHAI THÁI BÌNH 

          Lí học gia trứ danh thời Bắc Tống, lãnh tụ Quan học  (1) Trương Tái 张载 (tự Tử Hậu 子厚, mọi người gọi ông là Hoành Cừ tiên sinh 横渠先生 , 1020 – 1077) đã để lại cho hậu thế nhiều di sản tinh thần quý báu, trong đó có bốn câu danh ngôn, đó chính là:

          Vị thiên địa lập tâm, vị sinh dân lập mệnh, vị vãng thánh kế tuyệt học, vị vạn thế khai thái bình.

          为天地立心为生民立命为往圣继绝学为万世开太平

          Căn cứ vào bốn câu danh ngôn của Trương Tái, mở đầu mỗi câu đều có đặc điểm chữ “vị” , có thể nói tắt là “tứ vị cú” 四为句. Đối với “tứ vị cú”, điểm khó khi giải thích là ở câu thứ nhất. Trong thời gian nghiên cứu nhiều năm, chúng tôi căn cứ vào những điều tâm đắc, đối với “tứ vị cú” giải thích đơn giản như sau.

          Câu thứ 1 “Vị thiên địa lập tâm” 为天地立心. Trước mắt, cách giải thích tương đối lưu hành là: cho rằng thiên địa không có tâm, nhưng con người có tâm, tâm của con người cũng chính là “tâm của thiên địa”; “Vị thiên địa lập tâm” chính là phát triển năng lực tư duy của con người, để lí giải sự vật và quy luật của giới tự nhiên. Đây là sự giải thích sai lầm. Đầu tiên, từ “thiên địa” 天地 thời cổ hoàn toàn không chỉ giới tự nhiên. Trong Dịch truyện 易传, kinh điển của Nho gia, có mô thức vũ trụ “tam tài” 三才 liên quan đến thiên, địa, nhân, biểu minh người xưa đã có khuynh hướng xem thiên, địa, nhân là một chỉnh thể. Nhân đó, “thiên địa” cũng chính là ý nghĩa “thiên địa chi gian” 天地之间 tức bao gồm giới tự nhiên, cũng bao gồm cả con người và xã hội nhân gian. Trương Tái đem “thiên địa” mang hàm nghĩa xã hội cũng xưng là “thiên hạ” 天下. Thứ đến, Trương Tái hoàn toàn không hề phủ nhận sự tồn tại của “thiên địa chi tâm”. “Thiên địa chi tâm” chính là thuật ngữ trong “Chu Dịch – Phục quái” 周易 - 复卦, Trương Tái là một Dịch học gia nổi tiếng cho rằng, “thiên địa chi tâm duy thị sinh vật” 天地之心惟是生物 (Hoành Cừ Dịch thuyết – Thượng kinh 横渠易说 - 上经). Hiển nhiên, về ý nghĩa thiên địa có thể sinh thành vạn vật, Trương Tái khẳng định thiên địa là có tâm. Tâm của sinh vật là thứ vốn có của thiên địa, không phải vì nhu cầu của con người mà “lập”, nếu không thì sẽ không khoa trương một cách thoả đáng năng lực của con người. Kì thực, “Vị thiên địa lập tâm” là ý chỉ vì xã hội mà kiến lập một hệ thống luân lí đạo đức “nhân” , “hiếu”  làm hệ thống giá trị tinh thần hạt nhân. Trương Tái trong trứ tác Kinh học lí quật 经学理窟, đối với hàm nghĩa và phương pháp “lập tâm” đã có sự luận thuật tập trung, nếu nhìn mà không thấy, đối với sự lí giải “lập tâm” dễ rơi vào ức đoán. Theo cách nhìn của Trương Tái, “lập tâm” cũng chính là “lập thiên địa chi tâm”, bởi vì thiên lí “năng sử thiên hạ duyệt thả thông” 天理能使天下悦且通 (thiên lí có thể khiến thiên hạ vui và thông suốt), từ chỗ khiến “thiên hạ” (xã hội) tất nhiên sẽ phổ biến tiếp thụ giá trị đạo đức “nhân hiếu chi lí” 仁孝之理. (Chính mông – Thành minh 正蒙 - 诚明). Nhìn từ những tư liệu này, hàm nghĩa của “vi thiên hạ lập tâm” rất rõ ràng, trọng điểm không phải ở chỗ nhận thức luận, mà là ở chỗ giá trị luận.

          Câu thứ 2 “Vị sinh dân lập mệnh” 为生民立命. “Sinh dân” 生民 chỉ dân chúng, “mệnh”  chỉ vận mệnh của dân chúng. Điều này luôn liên quan đến vấn đề “an thân lập mệnh” 安身立命 của Nho gia. Sử xưng, “hỉ luận mệnh” 喜论命của Trương Tái. “Mệnh” trong “vị sinh dân lập mệnh” chủ yếu chỉ vận mệnh của con người. Trong lịch sử trường kì lưu hành điều mà gọi là “mệnh định luận” 命定论, cho rằng con người chỉ có thể dựa vào sự sắp đặt của vận mệnh. Nhưng Trương Tái lại cho rằng, chỉ cần thông qua nỗ lực đạo đức của bản thân, con người về phương diện tinh thần có thể nắm bắt được vận mệnh của mình từ đó mà phú cho ý nghĩa của sinh mệnh. Nhân đó, “Vị sinh dân lập mệnh” là nói vì dân chúng mà chọn lựa phương hướng vận mệnh một cách chính xác, xác lập ý nghĩa của sinh mệnh.

          Câu thứ 3 “Vị vãng thánh kế tuyệt học” 为往圣继绝学: “Vãng thánh” 往圣, chỉ thánh nhân trong lịch sử. Thánh nhân mà Nho gia gọi, kì thực là chỉ các điển phạm nhân cách và lãnh tụ tinh thần. “Tuyệt học” 绝学, chỉ truyền thống học thuật bị đứt đoạn. Lí học gia phổ biến cho rằng, học thống của Nho gia từ Mạnh Tử 孟子 trở về sau bị đứt đoạn, cho nên phải nỗ lực khôi phục. “Tuyệt học” mà Trương Tái kế thừa hoàn toàn không phải chiếu theo tiền nhân, mà ra sức cầu cái mới, trong học thuyết của ông có không ít nội dung những điều mà lục kinh chưa ghi chép, những điều mà tiền thánh chưa nói đến.

          Câu thứ 4 “Vị vạn thế khai thái bình 为万世开太平: Quan niệm về “thái bình” 太平và “đại đồng” 大同là lí tưởng chính trị xã hội của Chu Công 周公, Khổng Tử 孔子  trở đi. Đến thời Bắc Tống, những chính trị gia, tư tưởng gia mà đại biểu là Phạm Trọng Yêm 范仲淹, Lí Cấu 李觏 ... đều đề xuất chủ trương “trí thái bình” 致太平. Trương Tái không hạn chế trật tự “thái bình”, mà là lấy tầm nhìn sâu xa hơn để nhìn vấn đề cơ nghiệp “thái bình” của “vạn thế”, đó là chỗ không phải tầm thường của ông.

          Đối với việc lí giải bốn câu, không thể thoát li bối cảnh xây dựng đất nước vào đầu triều Tống. Nhà Tống họ Triệu tổng kết bài học kinh nghiệm quốc gia trường kì phân liệt, để xây dựng lại trật tự xã hội, xác lập quốc sách “dĩ Nho lập quốc” 以儒立国. Dưới hoàn cảnh chính sách này, mối quan tâm nhất của những lí học gia thời Bắc Tống mà Trương Tái là đại biểu là, vì trật tự lí tưởng mà Nho gia sở truy cầu đặt nền móng tinh thần vĩnh hằng, chứ không phải là nhận thức “quy luật của giới tự nhiên”.

          Tóm lại, “tứ vị cú” liên quan đến các nội dung như giá trị tinh thần của xã hội và dân chúng, ý nghĩa cuộc sống, truyền thừa học thống, lí tưởng chính trị ... Chúng ta có thể đem “tứ vị cú” của Trương Tái dịch sang Hán ngữ hiện đại là:

          Vì xã hội kiến lập lại giá trị tinh thần, vì dân chúng xác lập ý nghĩa của sinh mệnh, vì tiền thánh kế thừa học thống đã bị gián đoạn, vì vạn thế khai thác cơ nghiệp thái bình.

          (Tác giả: Giáo sư hướng dẫn luận văn học vị Tiến sĩ, giáo sư Khoa Triết học Đại học Sư phạm Thiểm Tây).

Chú của người dịch

1- Quan học 关学: Quan học là một học phái lí học của các học giả Nho gia manh nha vào thời Khánh Lịch 庆历 triều Bắc Tống như Thân Nhan 申颜, Hầu Khả 侯可, đến Trương Tái 张载 thì chính thức sáng lập. Quan học là học phái trọng yếu của Nho học, nhân vì Trương Tái - người sáng lập là người quan trung 关中, cho nên xưng là “Quan học” 关学. Cũng nhân vì người đời gọi Trương Tái là “Hoành Cừ tiên sinh” 横渠先生nhân đó mà cũng có cách nói là “Hoành Cừ chi học” 横渠之学.

                                                               Huỳnh Chương Hưng

                                                               Quy Nhơn 16/12/2020

Thursday, March 6, 2025

BẢNG TRA CỨU MỆNH NGŨ HÀNH THEO NĂM SINH

https://chiistore.com/pages/bang-tra-cuu-menh-ngu-hanh-theo-nam-sinh

Theo phong thủy, tùy vào năm sinh mà vận mệnh con người sẽ tương ứng với 5 yếu tố ngũ hành: Thủy, Hỏa, Thổ, Kim, Mộc. Tùy vào mỗi mệnh mà mỗi người sẽ phù hợp mỗi màu sắc, đá quý,… khác nhau. Nguyên tắc lựa chọn vòng phong thủy cũng dựa trên yếu tố ngũ hành này. 

Các bạn có thể tra cứu mệnh của mình dựa vào năm sinh theo bảng tra cứu và sau đó lựa chọn cho mình SẢN PHẨM HỢP MỆNH tại C.H.II STORE bằng cách nhấn chuột vào tên MỆNH:

BẢNG TRA CỨU MỆNH CHO CÁC NĂM SINH TỪ 1940-2030
Năm sinhÂm lịchGiải NghĩaMệnhGiải NghĩaMàu sắc tương sinhMàu sắc tương hợp
1940Canh ThìnThứ Tính Chi Long
(Rồng khoan dung)
Kim Bạch Lạp Kim
(Vàng sáp ong)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1941Tân
Tỵ
Đông Tàng Chi Xà
(Rắn ngủ đông)
KimBạch Lạp Kim
(Vàng sáp ong)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1942Nhâm NgọQuân Trung Chi Mã
(Ngựa chiến)
MộcDương Liễu Mộc
(Gỗ cây dương)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
1943Quý MùiQuần Nội Chi Dương
(Dê trong đàn)
MộcDương Liễu Mộc
(Gỗ cây dương)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
1944Giáp ThânQuá Thụ Chi Hầu
(Khỉ leo cây)
Thủy  Tuyền Trung Thủy
(Nước trong suối)
Trắng, XámXanh dương, Đen 
1945Ất
Dậu
Xướng Ngọ Chi Kê
(Gà gáy trưa)
Thủy  Tuyền Trung Thủy
(Nước trong suối)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1946Bính TuấtTự Miên Chi Cẩu
(Chó đang ngủ)
ThổỐc Thượng Thổ
(Đất nóc nhà)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1947Đinh HợiQuá Sơn Chi Trư
(Lợn qua núi)
Thổ Ốc Thượng Thổ
(Đất nóc nhà)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1948Mậu
Thương Nội Chi Trư
(Chuột trong kho)
Hỏa Thích Lịch Hỏa
(Lửa sấm sét)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1949Kỷ
Sửu
Lâm Nội Chi Ngưu
(Trâu trong chuồng)
Hỏa  Thích Lịch Hỏa
(Lửa sấm sét)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1950Canh DầnXuất Sơn Chi Hổ
(Hổ xuống núi)
MộcTùng Bách Mộc
(Gỗ tùng bách)
Đen, Xám, Xanh dươngXanh lá cây
1951Tân MãoẨn Huyệt Chi Thố
(Thỏ trong hang)
MộcTùng Bách Mộc
(Gỗ tùng bách)
Đen,Xám, Xanh dươngXanh lá cây
1952Nhâm ThìnHành Vũ Chi Long
(Rồng phun mưa)
Thủy  Trường Lưu Thủy
(Nước chảy mạnh)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1953Quý
Tỵ
Thảo Trung Chi Xà
(Rắn trong cỏ)
Thủy  Trường Lưu Thủy
(Nước chảy mạnh)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1954Giáp NgọVân Trung Chi Mã
(Ngựa trong mây)
Kim Sa Trung Kim
(Vàng trong cát)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1955Ất MùiKính Trọng Chi Dương
(Dê được quý mến)
KimSa Trung Kim
(Vàng trong cát)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1956Bính ThânSơn Thượng Chi Hầu
(Khỉ trên núi)
Hỏa Sơn Hạ Hỏa
(Lửa trên núi)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1957Đinh DậuĐộc Lập Chi Kê
(Gà độc thân)
Hỏa  Sơn Hạ Hỏa
(Lửa trên núi)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1958Mậu TuấtTiến Sơn Chi Cẩu
(Chó vào núi)
Mộc Bình Địa Mộc
(Gỗ đồng bằng)
Đen, Xám, Xanh dươngXanh lá cây
1959Kỷ
Hợi
Đạo Viện Chi Trư
(Lợn trong tu viện)
MộcBình Địa Mộc
(Gỗ đồng bằng)
Đen, Xám, Xanh dươngXanh lá cây
1960Canh TýLương Thượng Chi Thử
(Chuột trên xà)
Thổ Bích Thượng Thổ
(Đất tò vò)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1961Tân SửuLộ Đồ Chi Ngưu
(Trâu trên đường)
ThổBích Thượng Thổ
(Đất tò vò)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1962Nhâm DầnQuá Lâm Chi Hổ
(Hổ qua rừng)
Kim Kim Bạch Kim
(Vàng pha bạc)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1963Quý MãoQuá Lâm Chi Thố
(Thỏ qua rừng)
KimKim Bạch Kim
(Vàng pha bạc)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1964Giáp ThìnPhục Đầm Chi Lâm
(Rồng ẩn ở đầm)
Hỏa  Phú Đăng Hỏa
(Lửa đèn to)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng, Cam, Tím
1965Ất
Tỵ
Xuất Huyệt Chi Xà
(Rắn rời hang)
Hỏa Phú Đăng Hỏa
(Lửa đèn to)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1966Bính NgọHành Lộ Chi Mã
(Ngựa chạy trên đường)
Thủy  Thiên Hà Thủy
(Nước trên trời)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1967Đinh MùiThất Quần Chi Dương
(Dê lạc đàn)
Thủy  Thiên Hà Thủy
(Nước trên trời)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1968Mậu ThânĐộc Lập Chi Hầu
(Khỉ độc thân)
Thổ Đại Trạch Thổ
(Đất nền nhà)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
 Nâu đất
1969Kỷ
Dậu
Báo Hiệu Chi Kê
(Gà gáy)
Thổ Đại Trạch Thổ
(Đất nền nhà)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1970Canh TuấtTự Quan Chi Cẩu
(Chó nhà chùa)
Kim Thoa Xuyến Kim
(Vàng trang sức)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1971Tân
Hợi
Khuyên Dưỡng Chi Trư
(Lợn nuôi nhốt)
Kim Thoa Xuyến Kim
(Vàng trang sức)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1972Nhâm TýSơn Thượng Chi Thử
(Chuột trên núi)
Mộc Tang Đố Mộc
(Gỗ cây dâu)
Đen, Xám, Xanh dươngXanh lá cây
1973Quý SửuLan Ngoại Chi Ngưu
(Trâu ngoài chuồng)
MộcTang Đố Mộc
(Gỗ cây dâu)
Đen, Xám, Xanh dươngXanh lá cây
1974Giáp DầnLập Định Chi Hổ
(Hổ tự lập)
Thủy  Đại Khe Thủy
(Nước khe lớn)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1975Ất
Mão
Đắc Đạo Chi Thố
(Thỏ đắc đạo)
Thủy  Đại Khe Thủy
(Nước khe lớn)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1976Bính ThìnThiên Thượng Chi Long
(Rồng trên trời)
Thổ Sa Trung Thổ
(Đất pha cát)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1977Đinh
Tỵ
Đầm Nội Chi Xà
(Rắn trong đầm)
Thổ Sa Trung Thổ
(Đất pha cát)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1978Mậu NgọCứu Nội Chi Mã
(Ngựa trong chuồng)
Hỏa  Thiên Thượng Hỏa
(Lửa trên trời)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1979Kỷ
Mùi
Thảo Dã Chi Dương
(Dê đồng cỏ)
Hỏa  Thiên Thượng Hỏa
(Lửa trên trời)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1980Canh ThânThực Quả Chi Hầu
(Khỉ ăn hoa quả)
MộcThạch Lựu Mộc
(Gỗ cây lựu đá)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
1981Tân DậuLong Tàng Chi Kê
(Gà trong lồng)
MộcThạch Lựu Mộc
(Gỗ cây lựu đá)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
1982Nhâm TuấtCố Gia Chi Khuyển
(Chó về nhà)
Thủy  Đại Hải Thủy
(Nước biển lớn)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1983Quý HợiLâm Hạ Chi Trư
(Lợn trong rừng)
Thủy  Đại Hải Thủy
(Nước biển lớn)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1984Giáp
Ốc Thượng Chi Thử
(Chuột ở nóc nhà)
Kim Hải Trung Kim
(Vàng trong biển)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1985Ất
Sửu
Hải Nội Chi Ngưu
(Trâu trong biển)
Kim Hải Trung Kim
(Vàng trong biển)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1986Bính DầnSơn Lâm Chi Hổ
(Hổ trong rừng)
Hỏa  Lư Trung Hỏa
(Lửa trong lò)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1987Đinh MãoVọng Nguyệt Chi Thố
(Thỏ ngắm trăng)
Hỏa  Lư Trung Hỏa
(Lửa trong lò)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1988Mậu ThìnThanh Ôn Chi Long
(Rồng ôn hoà)
MộcĐại Lâm Mộc
(Gỗ rừng già)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
1989Kỷ
Tỵ
Phúc Khí Chi Xà
(Rắn có phúc)
Mộc Đại Lâm Mộc
(Gỗ rừng già)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
1990Canh NgọThất Lý Chi Mã
(Ngựa trong nhà)
Thổ Lộ Bàng Thổ
(Đất đường đi)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1991Tân MùiĐắc Lộc Chi Dương
(Dê có lộc)
Thổ Lộ Bàng Thổ
(Đất đường đi)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1992Nhâm ThânThanh Tú Chi Hầu
(Khỉ thanh tú)
Kim Kiếm Phong Kim
(Vàng mũi kiếm)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1993Quý DậuLâu Túc Kê
(Gà nhà gác)
KimKiếm Phong Kim
(Vàng mũi kiếm)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
1994Giáp TuấtThủ Thân Chi Cẩu
(Chó giữ mình)
Hỏa  Sơn Đầu Hỏa
(Lửa trên núi)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1995Ất
Hợi
Quá Vãng Chi Trư
(Lợn hay đi)
Hỏa  Sơn Đầu Hỏa
(Lửa trên núi)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
1996Bính
Điền Nội Chi Thử
(Chuột trong ruộng)
Thủy  Giản Hạ Thủy
(Nước khe suối)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1997Đinh SửuHồ Nội Chi Ngưu
(Trâu trong hồ nước)
Thủy  Giản Hạ Thủy
(Nước khe suối)
Trắng, XámXanh dương, Đen
1998Mậu DầnQuá Sơn Chi Hổ
(Hổ qua rừng)
Thổ Thành Đầu Thổ
(Đất trên thành)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
1999Kỷ
Mão
Sơn Lâm Chi Thố
(Thỏ ở rừng)
ThổThành Đầu Thổ
(Đất trên thành)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
2000Canh ThìnThứ Tính Chi Long
(Rồng khoan dung)
KimBạch Lạp Kim
(Vàng sáp ong)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
2001Tân
Tỵ
Đông Tàng Chi Xà
(Rắn ngủ đông)
Kim Bạch Lạp Kim
(Vàng sáp ong)
Vàng,
 Nâu đất
Trắng, Xám
2002Nhâm NgọQuân Trung Chi Mã
(Ngựa chiến)
Mộc Dương Liễu Mộc
(Gỗ cây dương)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
2003Quý MùiQuần Nội Chi Dương
(Dê trong đàn)
Mộc Dương Liễu Mộc
(Gỗ cây dương)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
2004Giáp ThânQuá Thụ Chi Hầu
(Khỉ leo cây)
Thủy  Tuyền Trung Thủy
(Nước trong suối)
Trắng, XámXanh dương, Đen
2005Ất
Dậu
Xướng Ngọ Chi Kê
(Gà gáy trưa)
Thủy  Tuyền Trung Thủy
(Nước trong suối)
Trắng, XámXanh dương, Đen
2006Bính TuấtTự Miên Chi Cẩu
(Chó đang ngủ)
Thổ Ốc Thượng Thổ
(Đất nóc nhà)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
2007Đinh HợiQuá Sơn Chi Trư
(Lợn qua núi)
Thổ Ốc Thượng Thổ
(Đất nóc nhà)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
2008Mậu
Thương Nội Chi Thư
(Chuột trong kho)
Hỏa  Thích Lịch Hỏa
(Lửa sấm sét)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
2009Kỷ
Sửu
Lâm Nội Chi Ngưu
(Trâu trong chuồng)
Hỏa Thích Lịch Hỏa
(Lửa sấm sét)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
2010Canh DầnXuất Sơn Chi Hổ
(Hổ xuống núi)
Mộc Tùng Bách Mộc
(Gỗ tùng bách)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
2011Tân MãoẨn Huyệt Chi Thố
(Thỏ)
MộcTùng Bách Mộc
(Gỗ tùng bách)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
2012Nhâm ThìnHành Vũ Chi Long
(Rồng phun mưa)
Thủy  Trường Lưu Thủy
(Nước chảy mạnh)
Trắng, XámXanh dương, Đen
2013Quý
Tỵ
Thảo Trung Chi Xà
(Rắn trong cỏ)
Thủy  Trường Lưu Thủy
(Nước chảy mạnh)
Trắng, XámXanh dương, Đen
2014Giáp NgọVân Trung Chi Mã
(Ngựa trong mây)
Kim Sa Trung Kim
(Vàng trong cát)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
2015Ất
Mùi
Kính Trọng Chi Dương
(Dê được quý mến)
KimSa Trung Kim
(Vàng trong cát)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
2016Bính ThânSơn Thượng Chi Hầu (Khỉ trên núi)Hỏa Sơn Hạ Hỏa
(Lửa trên núi)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
2017Đinh DậuĐộc Lập Chi Kê
(Gà độc thân)
Hỏa Sơn Hạ Hỏa
(Lửa trên núi)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
2018Mậu TuấtTiến Sơn Chi Cẩu
(Chó vào núi)
MộcBình Địa Mộc
(Gỗ đồng bằng)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
2019Kỷ
Hợi
Đạo Viện Chi Trư
(Lợn trong tu viện)
MộcBình Địa Mộc
(Gỗ đồng bằng)
Đen, Xám,
Xanh dương
Xanh lá cây
2020Canh
Lương Thượng Chi Thử (Chuột trên xà)ThổBích Thượng Thổ
(Đất tò vò)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
2021Tân
Sửu
Lộ Đồ Chi Ngưu
(Trâu trên đường)
Thổ Bích Thượng Thổ
(Đất tò vò)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
2022Nhâm DầnQuá Lâm Chi Hổ
(Hổ qua rừng)
KimKim Bạch Kim
(Vàng pha bạc)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
2023Quý MãoQuá Lâm Chi Thố
(Thỏ qua rừng)
Kim Kim Bạch Kim
(Vàng pha bạc)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám
2024Giáp ThìnPhục Đầm Chi Lâm
(Rồng ẩn ở đầm)
Hỏa Phú Đăng Hỏa
(Lửa đèn to)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
2025Ất
Tỵ
Xuất Huyệt Chi Xà
(Rắn rời hang)
Hỏa Phú Đăng Hỏa
(Lửa đèn to)
Xanh lá câyĐỏ, Hồng,
Cam, Tím
2026Bính NgọHành Lộ Chi Mã
(Ngựa chạy trên đường)
Thủy  Thiên Hà Thủy
(Nước trên trời)
Trắng, XámXanh dương, Đen
2027Đinh
Mùi
Thất Quần Chi Dương
(Dê lạc đàn)
Thủy  Thiên Hà Thủy
(Nước trên trời)
Trắng, XámXanh dương, Đen
2028Mậu ThânĐộc Lập Chi Hầu
(Khỉ độc thân)
ThổĐại Trạch Thổ
(Đất nền nhà)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
2029Kỷ
 Dậu
Báo Hiệu Chi Kê
(Gà gáy)
ThổĐại Trạch Thổ
(Đất nền nhà)
Đỏ, Hồng,
Cam, Tím
Vàng,
Nâu đất
2030Canh TuấtTự Quan Chi Cẩu
(Chó nhà chùa)
KimThoa Xuyến Kim
(Vàng trang sức)
Vàng,
Nâu đất
Trắng, Xám